Tìm kiếm

Thứ Năm, 28 tháng 10, 2010

tâm trạng

đôi khi thấy buồn vu vơ,thấy mình vô phương hướng..
.mục tiêu của mình đâu rùi?quyết tâm của mình đâu rùi?
càng được hướng dẫn cho đúng quỹ đạo thì mình càng thấy mình tuột quá xa... càng được ân cần chỉ bảo thì mình càng ko thể tiếp thu nổi
.trường đời,phải chăng là cái tất yếu?
khi đến bờ vực thẳm tất yếu có đg quay lại?
bước đến đường cùng tất yếu có đg thoái lui?
vấp ngã tất yếu sẽ đứng dậy?....
còn bao nhiêu cái tất yếu?cái tất yếu có luôn là tất yếu ko?phải chăng nó là quy luật là chân lí,là cái luôn luôn đúng?...
ko.mình nghĩ là thế. liệu đg quay lại kia có dẫn đến bờ vực khác? khi đứng dậy rồi vẫn còn đủ 2 chân?..
chả lẽ lại bi quan?chả nhẽ ko dám thử...?
dù ko biết trc đg con đg kia thế nào nhưng lại lưỡng lự trc đg sống duy nhất ư? dù ko đủ 2 chân chẳng nhẽ cứ nằm,bò mãi...
cần phải có mục tiêu.cần phải có định hướng cuộc sống. đúng vậy.m sẽ làm như vậy.nhưng m cần 1 thứ,1 động lực mạnh mẽ,1 năng lượng cân =.hiện tại thật chơi vơi.
xin cho tôi 1 ít thời gian để giải tỏa,để ngẫm nghĩ,và để xây lại con đường mới....

Thứ Ba, 26 tháng 10, 2010

309 thân yêu

gió mỉm cười
lật trang giấy trắng
ánh nhìn tỏa nắng
đong đầy
nụ cười thơ ngây
giữ mãi
rồi ngày mai
dù dòng đời ngược xuôi
dù năm tháng đổi rời
309 mình ơi
kỉ niệm lưu giữ nhé
luôn mỉm cười vui vẻ
luôn chia sẻ ngọt bùi
quên đi mọi điều xui
gặp thật nhiều may mắn
cho trái tim nhỏ nhắn
bừng lên khúc nhạc tình
cho buổi sớm bình minh
hạnh phúc chào gõ cửa
muộn phiền theo làn mưa
tình yêu lan tỏa nắng
nhớ những năm thức trắng
cùng nhau ngồi xem phim
nhớ đôi mắt lim dim
cùng nhau chào buổi sáng
mình cùng nhau ngồi hát
sinh nhật thật vui nhiều
ôi hạnh phúc bao nhiêu
giấy nào sao cho đủ
nhờ trái tim ấp ủ
chỉ 1 ngăn nhỏ thôi
309 mình ơi
mỗi người một ngăn nhé!

Thứ Tư, 13 tháng 10, 2010

NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC QUẢN LÍ MÔI TRƯỜNG,NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG MÔI TRƯỜNG NƯỚC HIỆN NAY Ở VIỆT NAM(p2,3)

Phần 2:Những bất cập trong quản lí môi trường nước ở Việt Nam

1.Thứ nhất, hệ thống văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường còn chưa chặt chẽ, cụ thể và thiếu đồng bộ,chưa có các chế tài thật sự nghiêm khắc trong việc quản lí môi trường nước.

Gần đây tại  Việt Nam, dư luận lại xôn xao trước những vụ án về môi trường như: Nhà máy Vedan, Công ty Tung Kuang ở Hải Dương thải nước thải chưa xử lý ra ngoài môi trường. Rõ ràng, vấn đề môi trường đang rất được quan tâm. Xung quanh các sự kiện ấy, dư luận đề cập nhiều đến vai trò của người quản lý môi trường và đặc biệt là vai trò của người quản lý doanh nghiệp. Ngoài ra, khi các doanh nghiệp vi phạm luật bảo vệ môi trường, mức độ thiệt hại đối với doanh nghiệp đó là một con số đáng kể. Không chỉ là thiệt hại trong việc đền bù cho vấn đề ô nhiễm môi trường mà hình ảnh thương hiệu của họ đối với cộng đồng cũng bị ảnh hưởng
  
Về cơ bản, Luật Bảo vệ môi trường cóhiệu lực từ 10/10/1994 ở Việt Nam  được tổ
chức triển khai tốt, đi vào cuộc sống. Nhiềukết quả thực hiện của Luật mang . nghĩa chiến lược, lâu dài và rất cơ bản, nhất là khi mà hoạt động bảo vệ môi trường đang từng
bước trở thành một hoạt động kinh tế xã hội quan trọng của nước ta. Những kết quả và sự
chuyển biến trong nhận thức và hành động của mỗi con người đào tạo ra nền tảng ban
đầu cho các bước phát triển tiếp theo.Cùng với việc ban hành Luật Bảo vệ môi
trường và tiếp sau đó là các Nghị định của Chính phủ, Thông tư hướng dẫn thực hiệncủa các bộ, một loạt các văn bản khác về bảo vệ môi trường cũng  được ban hành .Tuy nhiên, quá trình thực hiện các quy định pháp luật cũng thể hiện sự lúng túng, thiếu đồng bộ, dẫn đến kết quả chưa cao.

2.Thứ hai, các cấp chính quyền chưa quan tâm đúng mức đối với công tác bảo vệ môi trường,môi trường nước nói riêng.

Ô nhiễm môi trường hiện là vấn đề “nóng” trên phạm vi cả nước, không phải là vấn đề riêng của địa phương nào. Tuy nhiên, sự phối hợp mang tính liên tỉnh, liên vùng nhằm  đối phó với tình trạng này vẫn còn nhiều bất cập.

Việc đề ra những yêu cầu về môi trường theo một “chuẩn” chung là rất khó, do đó vẫn còn nhiều địa phương đưa ra những tiêu chuẩn thấp về môi trường (một phần còn do tình trạng cạnh tranh thu hút đầu tư). Như vậy, nếu dự án gây ô nhiễm bị từ chối cấp phép ở tỉnh này nhưng lại được cấp phép ở một tỉnh khác thì tình hình ô nhiễm sẽ rất khó giải quyết. Đây có thể là kết quả của việc thiếu một quy chế rõ ràng và nhất quán về việc hạn chế gây ô nhiễm, trong đó phải có sự phối hợp của các địa phương.

3.Thứ ba, công tác thẩm định và đánh giá tác động môi trường chưa được coi trọng.

Một trong những nguyên nhân làm suy giảm chất lượng môi trường tại nước ta bắt nguồn từ những yếu kém của khâu đầu tiên trong quá trình phê duyệt và cấp phép dự án đầu tư, trong đó, hoạt động thẩm định và đánh giá tác động môi trường còn nhiều hạn chế dẫn đến chất lượng của báo cáo đánh giá tác động môi trường còn thấp, chất lượng thẩm định của hội đồng thẩm định dự án chưa cao.

Theo Luật Bảo vệ môi trường và các văn bản pháp luật có liên quan, các chủ đầu tư phải có Báo cáo đánh giá tác động môi trường. Đây là công cụ quản lý môi trường được áp dụng cho từng dự án cụ thể nhằm đánh giá mức độ và phạm vi tác động môi trường của dự án, đồng thời đưa ra các giải pháp để giảm thiểu, hạn chế tác động tiêu cực vào môi trường. Báo cáo đánh giá tác động môi trường được lập và thẩm định trước để đánh giá tính khả thi về mặt môi trường của dự án với mục đích tham mưu cho cấp lãnh đạo đồng ý cho triển khai đầu tư dự án hay không. Song, thực tế cho thấy các báo cáo đánh giá tác động môi trường vẫn còn được lập một cách máy móc, rập khuôn, không thể hiện hết các tác động, đặc biệt là các tác động tiềm tàng của dự án, gây khó khăn và tiêu tốn nhiều thời gian cho công tác thẩm định. Hoạt động thẩm định và đánh giá tác động môi trường đang gặp phải nhiều vướng mắc, chất lượng thẩm định và phê duyệt chưa cao. Điều này bắt nguồn từ cả nguyên nhân chủ quan và khách quan như:

- Do các dự án thuộc nhiều loại hình khác nhau, từ công nghiệp nặng đến các ngành công nghiệp nhẹ, trong khi các Sở Tài nguyên và Môi trường chưa có nhiều  kinh nghiệm trong việc đánh giá tác động môi trường của các dự án này.

- Việc thiếu chuyên gia am hiểu từng lĩnh vực tham gia vào hội đồng thẩm định để phản biện những vấn đề liên qua đến môi trường của từng hoạt động riêng biệt cũng là một nhân tố khiến cho kết quả và chất lượng thẩm định, đánh giá tác động môi trường không cao.

- Trình độ của đội ngũ chuyên gia tham gia vào hội đồng thẩm định có vai trò quyết định đối với chất lượng của khâu thẩm định và đánh giá, do các chuyên gia có kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực hoạt động của mình và am hiểu về lĩnh vực môi trường. Tuy nhiên, thành phần của hội đồng thẩm định được quy định như hiện nay chưa đảm bảo tính khách quan, trung thực trong đánh giá. Luật đã quy định, 50% số thành viên của hội đồng thẩm định là các nhà môi trường, nhưng chưa nêu rõ các yêu cầu về trình độ, bằng cấp. Cũng do quy định chưa rõ ràng nên đã xảy ra trường hợp thành viên tham gia hội đồng thẩm định có kiến thức về đánh giá tác động môi trường nhưng không hiểu biết nhiều về tính chất dự án cần thẩm định, hoặc am hiểu về dự án  nhưng lại không có kiến thức về đánh giá tác động môi trường, hoặc cả hai. Việc thiếu đại diện của chính những người dân sinh sống xung quanh khu vực dự án được thực hiện cũng khiến cho việc đánh giá thiếu khách quan, trong khi họ chính là đối tượng chịu tác động mạnh nhất khi dự án đi vào thực hiện và có vấn đề về môi trường.

4.Quản lí việc xử lí nước thải ở làng nghề và các khu công nghiệp,các khu đô thị còn nhiều bất cập

- Bất cập về qui trách nhiệm cho chủ đầu tư: chủ đầu tư phải có trách nhiệm thu gom rác thải,xử lí nước thải,lập báo cáo,ứng cứu về các sự cố môi trường…
Tuy nhiên các chủ đầu tư chỉ là thuê mặt bằng nên việc qui trách nhiệm là khó.

-Qui định nội bộ khu công nghiệp chưa được phổ biến,quy hoạch khu công nghiệp còn thiếu đồng bộ…dẫn đến tình trạng không phát hiện được ai là người gây ô nhiễm để phạt và qui trách nhiệm cải tạo môi trường.

-Các làng nghề với các nguồn đầu tư tài chính cho việc bảo vệ môi trường còn kém,nhận thức của người dân còn rất thấp,thiếu các ứng dụng khoa học công nghệ trong xử lí nước thải và bảo vệ môi trường.
Hơn nữa các địa phương chưa thực sự có sự đầu tư giúp đỡ và quản lí chặt chẽ,xử lí nghiêm minh nên không ngăn chặn nổi tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Phần 3:  Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí môi trường, nâng cao chất
lượng  môi trường nước ở Việt Nam
hiện nay

             I.      Giải pháp ngắn hạn

Những việc có thể làm được ngay, không tốn tiền.Ví dụ, chỉ cần thay đổi hành vi vứt rác bừa bãi của người dân đã có thể mang lại hiệu quả cao. Một người vứt rác ngoài đường gây chi phí kinh tế cao, kéo theo đó sẽ là người nhặt rác, đổ rác, tiêu tốn công quỹ.

Chúng ta có thể xem xét lại các dự án, cân nhắc khía cạnh môi trường. Nhờ đó, giảm tốn kém cho bản thân dự án và hiệu quả môi trường lâu dài, thông qua tiết kiệm nguồn đầu vào, quản lý nguồn thải ra. 

Hệ thống quản lý môi trường trong các nhà máy cũng cần được tính đến. Các nhà máy từ sản xuất nhỏ đến sản xuất lớn đều là mô hình đóng, hệ thống quản lý môi trường kỹ lưỡng, theo tiêu chuẩn ISO 14000. Việc kiểm tra phải được tiến hành từng ngày, từng quy trình sản xuất. 

Áp dụng việc này hầu như không tốn tiền nhưng có thể giảm thiểu 30-40% những bức xúc hiện nay. 

         II.      Giải pháp dài hạn

1.Một là, hoàn thiện hệ thống pháp lý với những chế tài đủ mạnh tuỳ theo tính chất, mức độ và phù hợp với thông lệ quốc tế.

Trong bối cảnh môi trường nước ta đang xuống cấp nghiêm trọng với sự ra đời của hàng loạt các hoạt động sản xuất mới không có quy định trong Luật, do đó, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường là cần thiết. Hệ thống pháp luật này cần đổi mới xây dựng theo hướng quy định rõ ràng, chặt chẽ, bám sát thực tiễn sản xuất, kinh doanh của các đơn vị nhằm phát hiện và xử lý đúng những hành vi vi phạm bảo vệ môi trường, đồng thời quy định rõ ràng quyền lợi và trách nhiệm của người thực hiện các dự án đầu tư trong giai đoạn đầu. Việc triển khai thực hiện phải tiến hành nghiêm túc, trong giai đoạn đầu có thể cưỡng chế thực hiện cho đến khi đi vào nền nếp.

Mặc dù Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 đã có những điều chỉnh khá toàn diện về công tác bảo vệ môi trường trong tình hình mới, cũng như tăng cường phân cấp quản lý cho uỷ ban nhân dân các cấp, nhưng bên cạnh những nội dung được quy định chi tiết, dễ triển khai thực hiện, Luật cũng đang bộc lộ một số bất cập cần tiếp tục phải sửa đổi, bổ sung và điều chỉnh cho phù hợp như: xác nhận cam kết bảo vệ môi trường của các dự án nằm trong khu công nghiệp, khu chế xuất, quy định điều chỉnh đối với những dự án đã đi vào hoạt động trước tháng 7/2006 mà không có báo cáo thẩm định môi trường hoặc bản đăng ký đạt tiêu chuẩn môi trường; quy định trách nhiệm kiểm tra, thanh tra theo phạm vi quản lý nhà nước các cấp…Việc tiếp tục điều chỉnh Luật phù hợp với điều kiện mới sẽ hướng tới một môi trường tốt đẹp và thân thiện với con người.

2.Hai là, cần có cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan liên quan trong việc thẩm định, đánh giá tác động môi trường đối với các dự án ngay từ thời điểm xem xét ra quyết định cấp giấy phép đầu tư.

Để giải quyết tốt vấn đề môi trường, cần có một bài toán tổng hợp với sự tham gia của nhiều cấp, ngành từ trung ương đến địa phương, tuy nhiên, đây là một bài toán rất khó.

Giải quyết vấn đề nêu trên, trước hết, phải đẩy mạnh công tác quản lý về môi trường thông qua việc kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ việc cấp giấy phép đầu tư đối với các dự án mới về các mặt như: các sản phẩm phát sinh của quá trình sản xuất, phương án xả thải và xử lý môi trường sau sản xuất cũng như công tác quản lý cấp giấy phép xả nước thải... Cần xây dựng những cam kết và ràng buộc cụ thể về quyền lợi và trách nhiệm của doanh nghiệp đối với địa phương sở tại trong việc xử lý các tác hại có thể và chưa thể kiểm soát của môi trường; tạo cơ chế phối hợp chặt chẽ trong công tác chuyên môn giữa Thanh tra môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) và Cục Cảnh sát môi trường (Bộ Công an) trong việc quản lý môi trường.

Việc tăng cường phối hợp giữa Thanh tra môi trường và Cục Cảnh sát môi trường là yêu cầu hết sức quan trọng, góp phần giải quyết các vụ việc nhanh chóng, khẩn trương, tăng cường sức mạnh răn đe đối với các doanh nghiệp có hành vi gây ô nhiễm môi trường, tránh tình trạng thủ tục bị cắt khúc, khiến việc xử lý còn sót, chưa nghiêm minh. Bởi vì, mỗi cơ quan có đặc thù, chức năng, nhiệm vụ khác nhau và có thể bổ sung cho nhau trong thực hiện nhiệm vụ giám sát, bảo vệ môi trường. Cảnh sát môi trường có thể kiểm tra đột xuất bất cứ đơn vị nào có dấu hiệu vi phạm nên có thể xử lý nhanh, mạnh từng vụ việc, trong khi Thanh tra môi trường hoạt động phải theo chương trình, muốn thanh tra đơn vị nào thì phải có kế hoạch, phải báo trước nên có trường hợp khi thanh tra xuất hiện thì vi phạm đã được phi tang, che lấp.

3.Ba là, sử dụng công cụ chính sách như thu thuế, thu phí chất thải hợp lý để tái đầu tư cho bảo vệ môi trường.

Thuế, phí môi trường là một trong những công cụ quan trọng mà các quốc gia trên thế giới thường dùng trong việc điều tiết nền kinh tế vĩ mô, hạn chế những ngoại ứng bất lợi của quá trình sản xuất và thu lại tiền nhằm tái phân phối, tái đầu tư cho môi trường. Thuế sẽ khuyến khích và nâng đỡ các hoạt động kinh tế có lợi cho môi trường, nâng cao chất lượng môi trường, đồng thời thu hẹp, kìm hãm các hoạt động kinh tế gây ô nhiễm, huỷ hoại môi trường. Bản chất thuế là các khoản thu mang tính chất bắt buộc, cưỡng bức theo pháp luật, không bồi hoàn trực tiếp, do vậy, nó sẽ tác động trực tiếp đến hành vi của người phải nộp thuế. Đó cũng là cách thức chi trả cho sự tiêu dùng liên quan đến môi trường.

Tuy nhiên, ở Việt Nam, các loại thuế, phí này còn chưa đầy đủ, chưa được sử dụng rộng rãi và thuế môi trường ở đây mới chỉ được hiểu là tiền trả cho việc thu gom, xử lý chất thải, rác thải của quá trình sản xuất và hầu hết là chi phí thấp, đặc biệt là các làng nghề nông thôn. Sự dễ dãi trong công tác quản lý môi trường, chi phí xả thải thấp khiến cho nhiều doanh nghiệp nước ngoài đưa công nghệ cũ, lạc hậu vào Việt Nam làm cho môi trường sản xuất nói riêng, môi trường tại địa phương có khu công nghiệp nói chung bị ô nhiễm trầm trọng.

Việc xây dựng hệ thống thuế, phí cần thực hiện theo nguyên tắc: tuỳ theo khối lượng, tính chất, mức độ của chất xả thải, xả thải càng nhiều, chất xả thải càng nguy hiểm thì càng phải trả tiền nhiều, tuy nhiên, đến một mức độ nhất định thì cơ sở gây ô nhiễm phải bị đình chỉ hoạt động sản xuất hoặc đóng cửa; thuế, phí phải được đánh vào tất cả các hành vi gây ô nhiễm, ảnh hưởng đến sức khoẻ con người nói riêng, của hệ thống môi trường nói chung như ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm không khí, ô nhiễm âm thanh, ô nhiễm rác thải... Khung định mức của các loại thuế này cần rõ ràng, dễ hiểu để các doanh nghiệp có thể hiểu và tự kiểm soát hành vi xả thải của mình. Thuế, phí môi trường, một mặt là nguồn kinh phí để Nhà nước tái đầu tư vào các công trình hạ tầng như các nhà máy xử lý nước thải, các khu chôn lấp, xử lý, tiêu huỷ rác thải công nghiệp, mặt khác nhằm hạn chế các doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường. Về lâu dài, thuế, phí trở thành một biện pháp để nâng cao tinh thần, trách nhiệm đối với môi trường của các doanh nghiệp sản xuất.

4.Bốn là, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát nhằm phát hiện và xử lý kịp thời những doanh nghiệp vi phạm.

Công tác thanh tra, kiểm tra đối với các hành vi vi phạm môi trường của nước ta trong thời gian qua chưa đạt hiệu quả như mong muốn là do lực lượng cán bộ làm công tác môi trường của Việt Nam  vừa mỏng lại vừa yếu. Bên cạnh những khó khăn do khung pháp lý cho công tác quản lý môi trường còn nhiều hạn chế (như đã nêu trên), thì sự hạn chế về số lượng cán bộ cũng như chuyên môn yếu khiến cho việc thanh tra, kiểm tra các cơ sở sản xuất không thể tiến hành thường xuyên, liên tục, khiến cho việc vi phạm bảo vệ môi trường diễn ra nhiều lần mà cơ quan chức năng không thể xử lý kịp hoặc có tình trạng kiểm tra, xử phạt nhưng doanh nghiệp lại tái diễn ngay sau đó. Đồng thời, sự xuống cấp về đạo đức của một số cán bộ trực tiếp làm công tác kiểm tra, thẩm định, cấp giấy phép về chất lượng môi trường là một trong những nguyên nhân khiến cho các hành vi vi phạm Luật Bảo vệ môi trường tái diễn và bất chấp phản ứng của dư luận.

Để nâng cao chất lượng công tác thanh tra, kiểm tra về môi trường, cần chú trọng một số vấn đề như tăng cường số lượng cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra môi trường; nâng cao trình độ, nghiệp vụ của cán bộ làm công tác môi trường phù hợp với sự phát triển. Là một ngành nghề nhạy cảm, độc hại nên để có thể thu hút các cán bộ trẻ có tâm huyết cần thiết là phải có chính sách ưu đãi hợp lý. Nguồn kinh phí có thể lấy từ nguồn thuế và lệ phí xả thải, thu xử phạt đối với các hành vi vi phạm của doanh nghiệp; bên cạnh đó, cần tăng cường giáo dục ý thức, trách nhiệm đối với đội ngũ làm công tác kiểm tra, giám sát và thẩm định các dự án đầu tư, xây dựng, sản xuất.


Đối với các nhà quản lý môi trường, bảo vệ môi trường thì điều này không cần đề cập nhiều. Bởi việc đánh giá, phân tích những ảnh hưởng, tác động của môi trường sẽ giúp họ có biện pháp cụ thể để quản lý môi trường một cách chặt chẽ hơn.

Đánh giá tác động của môi trường còn là một hoạt động đi liền với vai trò, trách nhiệm và lợi nhuận của người quản lý, doanh nghiệp nói chung. Đánh giá tác động môi trường giúp các nhà quản lý doanh nghiệp có cái nhìn đúng đắn về trách nhiệm của doanh nghiệp mình với môi trường và cộng đồng. Từ đó họ sẽ không vì lợi nhuận mà bất chấp, vi phạm pháp luật về môi trường, không phải bỏ một khoản chi phí lớn cho việc khắc phục những hậu quả môi trường mà mình gây ra. Khi hoạt động đánh giá tác động môi trường đã trở thành một công việc bắt buộc đối với nhiều dự án đầu tư của doanh nghiệp; thì các nhà quản lý cần quan tâm hơn đến vấn đề này. Đây không chỉ là quy định nhằm thắt chặt hơn việc quản lý môi trường của Nhà nước; mà đây còn là cơ sở vững chắc nhất giúp các nhà đầu tư đưa ra quyết định có nên đầu tư vào một dự án nào đó hay không? Và qua việc đánh giá tác động môi trường, nhà đầu tư, người quản lý doanh nghiệp sẽ tiên liệu được những vấn đề về môi trường cần giải quyết nhằm đưa dự án, kế hoạch kinh doanh của mình đi đến thành công. Ngoài ra, với một nhà quản lý doanh nghiệp, việc xây dựng và phát triển thương hiệu cũng là vấn đề sống còn trong kinh doanh. Và thương hiệu, sản phẩm của doanh nghiệp chỉ được khách hàng, người tiêu dùng đón nhận khi doanh nghiệp quan tâm đến việc bảo vệ môi trường. Như vậy, công tác đánh giá tác động môi trường rõ ràng có ảnh hưởng rất lớn đến lợi nhuận trong kinh doanh cũng như việc xây dựng và phát triển thương hiệu của một doanh nghiệp. Một doanh nghiệp chỉ phát triển bền vững khi quan tâm đến vấn đề môi trường, thực hiện trách nhiệm với xã hội.

Đối với những nhà quản lý đất nước, việc đánh giá tác động môi trường càng trở nên cấp thiết. Việt Nam là một quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề của hiện tượng nóng dần lên của trái đất. Hiện tượng thời tiết bất thường, thiên tai, dịch bệnh… đó là hậu quả của ô nhiễm môi trường. Trước thực trạng đó, các nhà quản lý đất nước phải cần có những báo cáo, nghiên cứu, phân tích của công tác đánh giá tác động môi trường để đưa ra các biện pháp nhằm hạn chế tối đa những tác động tiêu cực ấy đến đời sống của người dân và sự phát triển của đất nước mình. Nhưng đó chỉ là những giải pháp mang tính ngắn hạn. Còn ở tầm vĩ mô hơn, các báo cáo, đánh giá, phân tích của công tác đánh giá tác động của môi trường sẽ là cơ sở cho việc hoạch định các kế hoạch quy hoạch, phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên của đất nước

6.Tuyên truyền giáo dục người dân có ý thức bảo vệ môi trường nói chung và môi trường nước nói riêng.

Đặc biệt đối với sinh viên và thế hệ trẻ của đất nước: giáo dục ngay trên trường học,trong công tác sinh hoạt đoàn đội.
Một cuộc điều tra nhanh về hiểu biết của sinh viên chuyên ngành môi trường và quản lý tài nguyên sắp ra trường đối với các chính sách hiện hành về môi trường do PanNature thực hiện tại 4 trường đại học: Khoa học tự nhiên, Bách Khoa, Kinh tế Quốc dân và Nông nghiệp I cho kết quả khá "thú vị". Có đến 50% sinh viên số sinh viên khi được hỏi trả lời sai về cơ quan chịu trách nhiệm phê chuẩn và ban hành các luật trong lĩnh vực môi trường và tài nguyên ở Việt Nam; gần 35% sinh viên trả lời sai về Cơ quan có trách nhiệm thống nhất Quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường trong toàn quốc; hơn 26% sinh viên trả lời sai về các luật thuộc lĩnh vực luật pháp về môi trường và tài nguyên của Việt Nam; hơn 73% sinh viên trả lời sai về thời gian ban hành Chương trình Mục tiêu quốc gia về Ứng phó với biến đổi khí hậu. Mức độ hiểu biết về các quy định đánh giá tác động môi trường của Việt Nam trong các bạn sinh viên cũng còn nhiều hạn chế…
Kết quả điều tra sơ bộ nêu trên đã phản ánh phần nào tính đúng đắn và tầm quan trọng của việc đào tạo, giảng dạy phân tích chính sách môi trường tại Việt Nam.
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn đó, có thể đưa thêm môn học “Phân tích chính sách môi trường” – Môn học mới cho các nhà quản lý tương lai

Kết luận

Con người dùng rất nhiều nước để uống, nấu nướng giặt giũ, và thậm chí dùng nhiều hơn trong sản xuất thực phẩm, giấy, quần áo,vv…

Sự tiêu thụ nước của con người đã ảnh hưởng đến hệ thống nước sạch, cũng giống như việc thiếu và ô nhiễm nước, có thể được hiểu như một hệ thống của sự sản xuất và chuỗi cung ứng. Những vấn đề về nước thường liên quan mật thiết đến cấu trúc của nền kinh tế toàn cầu.

Việc xử lý nước thải thường thì hay bị coi thường.Ở những vùng đang phát triển của thế giới, việc xử lý nước thải chỉ được ứng dụng bằng những hệ thống nhỏ lẻ. Ngay cả những nước công nghiệp, như là ở Bắc Mỹ và Châu Âu, nước thải cũng không được xử lý phổ biến.

            Những vấn đề về nguồn nước không an tòan và những hệ thống xử lý nguồn nước kém hiệu quả đang rất nóng bỏng ở những nước đang phát triển. Tuy chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ, nhưng vẫn có những người mắc bệnh do nước ô nhiễm và nước thải chưa được xử lý ở những nước công nghiệp. Mặc dù các nứơc phát triển có đủ điều kiện và phương tiện để giải quyết những vấn đề đó nhưng họ thường không làm vì những lý do về tự mãn, thiếu sự nhất trí chính trị, chi phí và những thứ khác.

Chừng nào Việt Nam đặt ra được mục tiêu cụ thể, xác định được chúng ta muốn gì, muốn đến đâu, thống nhất nguyên tắc thì các giải pháp tiếp theo sẽ đến tự nhiên. 

Hãy chung tay vì mt môi trường xanh,sch,đp,vì  
mt ngun nước tinh khiết cho trái đt thân yêu!

             

 

NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC QUẢN LÍ MÔI TRƯỜNG,NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG MÔI TRƯỜNG NƯỚC HIỆN NAY Ở VIỆT NAM


Phần 1:Thực trạng ô nhiễm môi trường nước ở Việt Nam.

                                 I.      Tìm hiểu về ô nhiễm môi trường nước.

Sự ô nhiễm là từ mà chúng ta nghe nhiều trong thời gian gần đây. Nhưng nghĩa chính xác của nó là gì? Nếu bạn tra nghĩa từ “ pollution” trong từ điển, bạn sẽ tìm thấy nghĩa như thế này-  phá hoại sự tinh khiết , làm ô nhiễm, đặc biệt do chất thải của con người”. Môi trường, ví dụ như môi trường sống xung quanh chúng ta, nơi chúng ta sống, bị ô nhiễm bởi chính các hoạt động của chúng ta. Những thứ ô nhiễm mà chúng ta tạo ra không những ảnh hưởng đến cuộc sống của chính chúng ta mà còn ảnh hưởng đến những sinh vật sống khác sống chung trong một môi trường với chúng ta như động vật và thực vật.
Môi trường nước: Mỗi vật thể sống đều phụ thuộc vào nước để sống. Hơn 2/3 trái đất được bao phủ bởi nước biển và nước ngọt. Mặc cho vai trò quan trọng của nước, con người vẫn tiếp tục làm ô nhiễm nguồn nước một cách đáng báo động.

                                 II.      Tác nhân gây ô nhiễm môi trường nước.
 

1.Đe dọa nguồn nước sạch- sông, suối, hồ


-Một trong những mối đe dọa lớn nhất đến nước tinh khiết là hóa chất. Các cánh đồng thường được phun thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ. Mưa sẽ cuốn các hóa chất này chảy ra suối và song,các động vật và cây cối ở trong nước không thể tiếp nhận những hóa chất này. Động vật và thực vật ngay lập tức bị nhiễm độc và mất cân bằng sự sống.
Phân hóa học chứa N và P, “hồ xi măng” (slurry), kết hợp với Photphat từ chất thải sinh hoạt như xà phòng giặt đồ, có thể bị cuốn vào nước. điều này không trực tiếp làm ô nhiễm nước nhưng nó gây cho những thực vật sống dưới nước như là tảo phát triển nhanh. Tảo tiêu thụ quá nhiều oxygen và do đó sẽ không còn oxygen cho cây cối và động vật. Sự phát triển này còn che ánh sáng mặt trời, đẫn đến các cá thể sống dưới nước sẽ chết. Cuối cùng tảo sẽ chết, gây hôi và thối rữa. Vấn đề của việc có quá nhiều phân bón trong nước được gọi là Eutrophication.

-Xí nghiệp, thường được xây cạnh các con sông để có thể lấy nước, có thể thải các hóa chất xuống nước, giết chết môi trường sống ở sông.

-Hệ thống lọc nước thải từ hộ gia đình và sau đó chảy ra sông hồ. Vi khuẩn trong hệ thống loc phan huy chất thải hữu cơ nhưng nếu nước chứa hóa chất như chất tẩy, vi khuẩn sẽ chết và nước ô nhiễm sẽ chảy ngược ra hồ. Mất đi lượng oxy trong nước, sinh vật không thể sống.

-Nước được dùng và thải ra sông từ nhà máy điện thường ấm, điều này có thể làm cho sinh vật có thể chết và thực vật phát triền và chết nhanh. Mưa acid dưới không khí ô nhiễm được tập trung nhiều ở sông đủ để giết cá.

-Cuối cùng, rác thải gây ra sự hủy hoại to lớn. Sông, hồ và suối là nơi để vứt bỏ mọi thứ từ lon cũ đến xe hơi cũ. Những bãi rác được đốt trên mặt đất hóa chất nguy hiểm và kim loại như cadmium và thủy ngân từ pin. Chúng có thể ngấm vào đất và chảy ra sông.

2.Đe dọa biển và đại dương

       
                           dầu tràn                               chất dẻo có thể gây ô nhiễm Đại Tây Dương



-Sự ô nhiễm được đề cập trên đây có thể dễ dàng chảy ra biển từ các con sông, cửa sông và nước  biển bị đặc biệt bị ảnh hưởng. Thêm vào đó, rất nhiều nước được bơm ra đại dương. Một vấn đề nghiêm trọng nhất là chất phóng xạ được sử dụng trong cuộc chiến tranh Thế Giới thứ 2. Một vài thùng đựng hàng bị rò rỉ và chúng ta vẫn không chắc sự tác động lâu dài của chúng lên hệ sinh thái biển?
-Một lượng lớn chất thải chưa được xử lý, chứa các chất hóa học nguy hiểm và vi khuẩn, được phóng thích ra biển. Hon the nua, tràn dầu là mối đe dọa khác cho hệ sinh thái biển.

-PCBs ( polychlorinated biphenyls) có nhiều công dụng trong ngành công nghiệp và có thể bị phân tán trong khói hoặc đường sông. Chúng cuối cùng đã ra biển và có thể trở thành vô cùng đậm đặc khi di chuyển qua chuỗi thưc ăn biển. Trở về năm 1969 ở vùng biển Irish, hàng ngàn guillemots bị giết bởi vì chất độc PCB. Sau đó người ta phát hiện ra rằng những loài động vật khác như gấu polar, hải cẩu và cá heo có một lượng lớn PCB trong cơ thể của chúng. Người ta tin rằng sự sinh sản có thể bị ảnh hưởng và nó dẫn đến sự tuyệt chủng của chúng.

            -Các đại dương được kết nối với nhau, do đó ô nhiễm sẽ được các dòng hải lưu và thủy triều mang đi và lan ra khắp thế giới. Sự ô nhiễm bắt đầu từ các động vật phù du và kết thúc ở các động vật cấp cao trong chuỗi thức ăn ở đai dương. Một vài chất độc có thể kết thúc ở các đĩa thức ăn của ta!

            -Một điều rõ rang từ các thông tin mà bạn đã đọc là chúng ta đang sản sinh Quá Nhiều Chất Thải! Trái đất không thể đương đầu với tất cả các ô nhiễm này. Chúng ta ít nhất đang nhận thức vấn đề của sự ô nhiễm- nhưng đã có bất cứ hành động nào được thực hiện để kiểm soát chúng?

Kênh nước thải – 1 sự khó chịu cho những người dân ở khu vực xung quanh.

                             III.      Thực trạng ô nhiễm môi trường nước ở Việt Nam

Trong những năm đầu thực hiện đường lối đổi mới, vì tập trung ưu tiên phát triển kinh tế và cũng một phần do nhận thức hạn chế nên việc gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường chưa chú trọng đúng mức. Tình trạng tách rời công tác bảo vệ môi trường với sự phát triển kinh tế - xã hội diễn ra phổ biến ở nhiều ngành, nhiều cấp, dẫn đến tình trạng gây ô nhiễm môi trường diễn ra phổ biến và ngày càng nghiêm trọng. Đối tượng gây ô nhiễm môi trường chủ yếu là hoạt động sản xuất của nhà máy trong các khu công nghiệp, hoạt động làng nghề và sinh hoạt tại các đô thị lớn. Ô nhiễm môi trường bao gồm 3 loại chính là: ô nhiễm đất, ô nhiễm nước và ô nhiễm không khí


1.Nước thải từ các khu công nghiệp gây ô nhiễm

Một số khu công nghiệp có xây dựng hệ thống xử lí nước thải tập trung nhưng hầu như không vận hành vì để giảm chi phí. Đến nay, mới có 60 khu công nghiệp đã hoạt động có trạm xử lí nước thải tập trung (chiếm 42% số khu công nghiệp đã vận hành) và 20 khu công nghiệp đang xây dựng trạm xử lí nước thải. Bình quân mỗi ngày, các khu, cụm, điểm công nghiệp thải ra khoảng 30.000 tấn chất thải rắn, lỏng, khí và chất thải độc hại khác.

Theo số liệu khảo sát do Chi cục Bảo vệ môi trường phối hợp với Công ty Cấp nước Sài Gòn thực hiện năm 2008 cho thấy, lượng NH3 (amoniac), chất rắn lơ lửng, ô nhiễm hữu cơ (đặc biệt là ô nhiễm dầu và vi sinh) tăng cao tại hầu hết các rạch, cống và các điểm xả. Có khu vực, hàm lượng nồng độ NH3 trong nước vượt gấp 30 lần tiêu chuẩn cho phép (như cửa sông Thị Tính); hàm lượng chì trong nước vượt tiêu chuẩn quy định nhiều lần; chất rắn lơ lửng vượt tiêu chuẩn từ 3 - 9 lần... Tác nhân chủ yếu của tình trạng ô nhiễm này chính là trên 9.000 cơ sở sản xuất công nghiệp nằm phân tán, nằm xen kẽ trong khu dân cư trên lưu vực sông Đồng Nai. Bình quân mỗi ngày, lưu vực sông phải tiếp nhận khoảng 48.000m3 nước thải từ các cơ sở sản xuất này. Dọc lưu vực sông Đồng Nai, có 56 khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động nhưng chỉ có 21 khu có hệ thống xử lý nước thải tập trung, số còn lại đều xả trực tiếp vào nguồn nước, gây tác động xấu đến chất lượng nước của các nguồn tiếp nhận...

Đến năm 2009 tình trạng này vẫn tiếp tục gia tăng.Theo Báo cáo Môi trường Quốc gia năm  do Bộ Tài nguyên – Môi trường công bố, khoảng 70% trong số hơn một triệu m3 nước thải/ngày từ các Khu công nghiệp (KCN) được xả thẳng ra các nguồn tiếp nhận không qua xử lý gây ô nhiễm môi trường. Có đến 57% số KCN đang hoạt động chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung.

Lượng nước thải từ các KCN phát sinh lớn nhất ở khu vực Đông Nam Bộ, chiếm 49% tổng lượng nước thải các KCN và thấp nhất ở khu vực Tây Nguyên là 2%. Hiện nay, tỷ lệ các KCN đã đi vào hoạt động có trạm xử lý nước thải tập trung chỉ chiếm khoảng 43%, nhiều KCN đã có hệ thống xử lý nước thải tập trung nhưng tỷ lệ đấu nối của các doanh nghiệp trong KCN còn rất thấp. Thực trạng trên đã dẫn đến việc phần lớn nước thải của các KCN khi xả thải ra môi trường đều có có các thông số ô nhiễm cao hơn nhiều lần so với quy chuẩn Việt Nam.

Tình trạng ô nhiễm không chỉ dừng lại ở hạ lưu các con sông mà lan lên tới cả phần thượng lưu. Kết quả quan trắc chất lượng cả 3 lưu vực sông Đồng Nai, Nhuệ - Đáy và sông Cầu đều cho thấy bên cạnh nguyên nhân do tiếp nhận nước thải sinh hoạt, những khu vực chịu tác động của nước thải KCN có chất lượng nước sông bị suy giảm mạnh, nhiều chỉ tiêu như BOD5, COD , NH4+ , tổng N, tổng P đều cao hơn quy chuẩn Việt Nam nhiều lần.


Có nơi, hoạt động của các nhà máy trong khu công nghiệp đã phá vỡ hệ thống thuỷ lợi, tạo ra những cánh đồng hạn hán, ngập úng và ô nhiễm nguồn nước tưới, gây trở ngại rất lớn cho sản xuất nông nghiệp của bà con nông dân.

Nhìn chung, hầu hết các khu, cụm, điểm công nghiệp trên cả nước chưa đáp ứng được những tiêu chuẩn về môi trường theo quy định. Thực trạng đó làm cho môi trường sinh thái ở một số địa phương bị ô nhiễm nghiêm trọng. Cộng đồng dân cư, nhất là các cộng đồng dân cư lân cận với các khu công nghiệp, đang phải đối mặt với thảm hoạ về môi trường. Họ phải sống chung với khói bụi, uống nước từ nguồn ô nhiễm chất thải công nghiệp... Từ đó, gây bất bình, dẫn đến những phản ứng, đấu tranh quyết liệt của người dân đối với những hoạt động gây ô nhiễm môi trường, có khi bùng phát thành các xung đột xã hội gay gắt
Cống nước thải


Một khảo sát gần đây của Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công nghiệp đã đưa ra dự đoán rằng tình trạng ô nhiễm môi trường tại Việt Nam trong năm 2010 sẽ tăng gấp 4, 5 lần so với hiện tại.

Viện trưởng Phan Đăng Tuất cảnh báo rằng nếu không có những biện pháp thúc đẩy kịp thời, tổng thiệt hại của nền kinh tế do ô nhiễm môi trường gây ra có thể lên đến 0.3% GDP cả nước trong năm 2010, và 1.2% trong năm 2020.VN có thể mất 5,5% GDP hàng năm do ô nhiễm môi trường


2.Nguồn nước ô nhiễm do đô thị hóa


Quá trình đô thị hóa cũng gây nên nhiều vấn đề nghiêm trọng đối với môi trường. Hà Nội với tổng diện tích là 924 km2 và hơn 3 triệu người sinh sống, hiện đang có khoảng 300 xí nghiệp, 450 tổ hợp thủ công và hơn 300 đơn vị sản xuất. Ở nhiều khu công nghiệp, điều kiện vật chất đã cũ nát, nhiều bệnh viện hay lò mổ cũng đang trong tình trạng tương tự. Hệ thống xử lý rác và thoát nước đã cũ và không hiệu quả, vì vậy đường phố Hà Nội hay bị ngập mỗi khi trời mưa to, gây nên nhiều vấn đề vệ sinh đáng lo ngại.


 
Nước thải sinh hoạt

3.Nước thải từ các làng nghề cũng là nguyên nhân chính gây ô nhiễm nguồn nước

Cùng với sự ra đời ồ ạt các khu, cụm, điểm công nghiệp, các làng nghề thủ công truyền thống cũng có sự phục hồi và phát triển mạnh mẽ. Việc phát triển các làng nghề có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội và giải quyết việc làm ở các địa phương. Tuy nhiên, hậu quả về môi trường do các hoạt động sản xuất làng nghề đưa lại cũng ngày càng nghiêm trọng.

Theo thống kê của Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, hiện nay cả nước có 2.790 làng nghề, trong đó có 240 làng nghề truyền thống, đang giải quyết việc làm cho khoảng 11 triệu lao động, bao gồm cả lao động thường xuyên và lao động không thường xuyên. Các làng nghề được phân bố rộng khắp cả nước, trong đó các khu vực tập trung phát triển nhất là Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung bộ, Tây Bắc bộ, Đồng bằng sông Cửu Long. Riêng ở Đồng bằng sông Hồng có 866 làng nghề, chiếm 42,9% cả nước. Hình thức các đơn vị sản xuất của làng nghề rất đa dạng, có thể là gia đình, hợp tác xã hoặc doanh nghiệp.

Tuy nhiên, do sản xuất mang tính tự phát, sử dụng công nghệ thủ công lạc hậu, chắp vá, mặt bằng sản xuất chật chội, việc đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải ít được quan tâm, ý thức bảo vệ môi trường sinh thái của người dân làng nghề còn kém, bên cạnh đó lại thiếu một cơ chế quản lý, giám sát của các cơ quan chức năng của Nhà nước, chưa có những chế tài đủ mạnh đối với những hộ làm nghề thủ công gây ô nhiễm môi trường và cũng chưa kiên quyết loại bỏ những làng nghề gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, nên tình trạng ô nhiễm môi trường tại các làng nghề ngày càng trầm trọng và hiện nay đã ở mức “báo động đỏ”. Hoạt động gây ô nhiễm môi trường sinh thái tại các làng nghề không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống, sinh hoạt và sức khoẻ của những người dân làng nghề mà còn ảnh hưởng đến cả những người dân sống ở vùng lân cận, gây phản ứng quyết liệt của bộ phận dân cư này, làm nảy sinh các xung đột xã hội gay gắt.

4.Chất  thải từ đất liền đem ra làm ô nhiễm nước biển

Có một điều chắc chắn là con người càng đẩy nhanh tốc độ phát triển trên lưu vực sông ven biển và trên biển thì mức độ gây tổn thương đến môi trường và tài nguyên biển ngày càng cao. Và không thể kể hết các tác động đến môi trường và tài nguyên biển do con người gây ra, nhưng thực tế con người đã nếm trải đủ thất bại và thiệt hại do những hành vi thiếu khôn khéo trong khai thác và sử dụng tài nguyên biển. Các chất thải không qua xử lý từ các lưu vực và vùng ven biển được đưa ra biển ngày càng nhiều, làm cho nhiều vùng biển ven bờ có nguy cơ bị thiếu ôxy trên diện rộng, khiến cho một số loài sinh vật biển bị đe dọa. Ở vùng nước ven bờ, đến năm 2010 dự tính chất thải sẽ tăng rất lớn: dầu khoảng 35 - 160 tấn/ngày, nitơ tổng số 26 - 52 tấn/ngày và tổng amôni 15 - 30 tấn/ngày.

Các chất thải có nguồn gốc lục địa được đưa vào biển nước ta thường là thuốc trừ sâu từ các vùng sản xuất nông nghiệp, chất thải hữu cơ từ các vùng nuôi trồng thủy sản ven biển, chất thải sinh hoạt và bệnh viện từ các khu đô thị và khu dân cư tập trung, chất thải mỏ, chất thải từ các khu công nghiệp, ... Hàng năm đã có cả trăm ngàn tấn COD, hàng chục ngàn tấn BOD và dinh dưỡng trong nước thải sinh hoạt và công nghiệp đổ vào biển chủ yếu từ các khu công nghiệp trọng điểm và các khu dân cư tập trung ven biển.
Các sông lớn ở Việt Nam trước khi đổ ra biển đều chảy qua các khu dân cư tập trung, các khu công nghiệp và vùng nông nghiệp phát triển. Vì vậy, nguồn thải từ nước sông cũng ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng nước biển ven bờ. Hàng năm trên 100 con sông cần cù tải ra biển khoảng 880 km3 nước, 270 - 300 triệu tấn phù sa, kéo theo nhiều chất có thể gây ô nhiễm biển như các chất hữu cơ, dinh dưỡng, kim loại nặng và nhiều chất độc hại khác

5.Thải ngay trên biển

Các nguồn thải này chủ yếu phát sinh từ các hoạt động trên biển như: khai thác và nuôi hải sản, thăm dò và khai thác dầu khí, hoạt động tàu thuyền trên biển, các sự cố tràn dầu,...

Chất thải từ các tàu thường bị đổ xuống biển ở các khu vực bến cảng, vũng vịnh khá kín sóng gió, nên đã làm cho nhiều nơi bị ô nhiễm nặng. Có nhiều nơi tập trung hàng ngàn tàu thuyền lớn nhỏ như bến cảng Hậu Lộc, Nghi Sơn (Thanh Hóa), sông Hàn (Đà Nẵng), Bến Đình (Vũng Tàu), cửa Ông Đốc (Cà Mau), cửa Sa Huỳnh (Quảng Ngãi). Hầu hết tại các khu vực biển có cảng cá hoạt động, hàm lượng các chất dinh dưỡng, chất hữu cơ và tổng coliform tương đối cao, nhiều khi vượt giới hạn cho phép đối với nước biển ven bờ dùng cho nuôi trồng thủy sản, nhất là dầu và vi khuẩn.

Cùng với phát triển và mở rộng hoạt động đội thương thuyền, tăng cường khả năng luân chuyển hàng hóa qua các cảng cũng làm tăng thêm nguồn chất thải đổ vào biển, gia tăng sự cố hàng hải và chủ yếu gây ra các vụ tràn dầu. Từ năm 1994 đến năm 2002 đã xác định được trên 40 vụ tràn dầu với số lượng dầu tràn trên 4.000 tấn. Đầu năm 2003 có 2 vụ tràn dầu ở khu vực sông Sài Gòn và Vũng Tàu, gây thiệt hại nghiêm trọng cho môi trường, nhất là các vùng nuôi trồng thủy sản. Đội tàu của ta nói chung là nhỏ, công suất thấp, cũ kỹ và lạc hậu, không được trang bị các máy phân ly dầu nước, cho nên khả năng thải dầu vào môi trường biển sẽ nhiều. Theo nghiên cứu của Hoa Kỳ (2000) thì các tàu nhỏ chạy bằng xăng dầu như vậy đã đóng góp khoảng 70% lượng dầu thải trong biển. Ngoài ra, hoạt động tàu thuyền thương mại qua tuyến hàng hải quốc tế cắt qua biển Đông cũng thải vào biển một lượng lớn dầu rò rỉ, dầu thải và chất thải sinh hoạt mà đến nay chưa thể thống kê đầy đủ.

Hiện nay, ở vùng biển nước ta có khoảng 340 giếng khoan thăm dò và khai thác dầu khí. Ngoài việc thải nước lẫn dầu với khối lượng lớn, trung bình mỗi năm hoạt động này còn phát sinh khoảng 5.600 tấn rác thải dầu khí, trong đó có 20 - 30% là chất thải rắn nguy hại còn chưa có bãi chứa và nơi xử lý.

6.Nước biển xuống cấp nghiêm trọng

Ở hầu hết các điểm đo thuộc vùng biển phía Bắc (từ Cửa Lục đến Cửa Lò) và vùng biển phía Nam (từ Vũng Tàâu đến Kiên Giang), hàm lượng tổng chất rắn lơ lửng đã vượt quá giới hạn cho phép đối với nước biển ven bờ. Đặc biệt ở Cà Mau đã vượt quá giới hạn cho phép đối với nước biển ven bờ cho nhiều mục đích sử dụng, tổng chất rắn lơ lửng trung bình đạt 354,85 mg/l. Vịnh Hạ Long bị đục hóa chưa rõ nguyên nhân, nhưng chắc chắn liên quan đến các hoạt động phát triển diễn ra sôi động trong những năm gần đây trên lưu vực sông ven biển. Đục hóa không chỉ ảnh hưởng đến mỹ cảm của khách du lịch, mà còn làm giảm khả năng quang hợp và một số sinh vật biển chết hoặc suy giảm nguồn giống hải sản. Theo các nhà khoa học, nước biển có giá trị tổng chất rắn lơ lửng cao phần lớn là do nước sông đổ ra, vì các giá trị cực đại thường xuất hiện vào mùa mưa lũ.

Nước biển ở một số khu vực biểu hiện bị "axít hóa" do độ pH trong nước biển tầng mặt biến đổi trong khoảng 6,3 - 8,2. Giá trị pH thấp nhất đo được ở biển Trà Cổ vào quý IV năm 2002, chưa rõ nguyên nhân. Ngoài ra, do ảnh hưởng của mưa lũ, nồng độ silicát trong nước biển ở cửa Ba Lạt, Đồng Hới, Quy Nhơn, Định An, Cà Mau, Rạch Giá trong đợt đo tháng 8 đã vượt quá giới hạn cho phép đối với nước biển. Hàm lượng silicát lớn nhất ở Cà Mau đo được 4,047mg/l. Hàm lượng trung bình nitrát (NO3) trong nước biển khu vực Ba Lạt đạt 0,235mg/l, ở vùng biển Định An đạt 0,231mg/l, nước biển thuộc các khu vực phía Bắc và Nam có hàm lượng nitrát cao hơn giá trị trên 2 - 4 lần, nhất là vào mùa mưa lũ.

Trong nước vùng biển Ba Lạt hàm lượng amôniắc (NH3-N) cao nhất, đạt 0,695mg/l, vượt quá giới hạn cho phép đối với nước biển ven bờ. Còn ở các khu vực khác thuộc vùng biển phía Bắc nồng độ amôniắc đã vượt quá giá trị giới hạn của ASEAN từ 1 đến 2 lần, trừ vùng biển Trà Cổ, Đồ Sơn, Cửa Lò. Nhìn chung, ở khu vực biển miền Nam và miền Trung hàm lượng NH3-N còn nhỏ. Tuy nồng độ phôtphát (PO4-P) trong nước biển ven bờ và ngoài khơi tương đối nhỏ, chưa vượt quá giới hạn của ASEAN đối với nước biển vùng cửa sông, nhưng ở Cửa Lục, Đồ Sơn, Cồn Cỏ, Đà Nẵng, Dung Quất, Phan Thiết, Định An vào một số thời điểm quan trắc, cũng đã vượt quá giới hạn đối với Tiêu chuẩn nước biển ven bờ của Việt Nam.
Hàm lượng dầu trong nước biển ở tất cả các khu vực biến đổi trong khoảng 0,14 - 1,10mg/l, vượt quá giới hạn của ASEAN. Nếu so với Tiêu chuẩn tạm thời của Việt Nam thì hầu hết các khu vực biển ở miền Bắc và Nam Bộ đều vượt quá giới hạn này vào các thời điểm quan trắc. Một trong các nguyên nhân gây ô nhiễm dầu trong nước biển vùng ven bờ là các vụ tràn dầu rõ và không rõ nguyên nhân từ hoạt động tàu thuyền.
Do ảnh hưởng của chất thải sinh hoạt, chất thải hữu cơ và phân bón mà chỉ số khuẩn côli trong nước biển gần các đô thị lớn, khu du lịch biển và các kênh tiêu nội đồng ven biển biến đổi trong khoảng 12 - 9.200cfu/100ml. Vùng biển từ Nha Trang đến Rạch Giá thường xuyên có chỉ số khuẩn côli cao hơn giới hạn cho phép 1 - 9,2 lần. Khu vực Đèo Ngang, Quy Nhơn, Thuận An, Đồng Hới, Đà Nẵng, Dung Quất, Sa Huỳnh, kết quả của một số đợt đo cho thấy chỉ số này cũng cao hơn giới hạn cho phép.

ma trận swot của công ty may việt tiến(p2)

III-Ma trận swot tổng công ty CP may Việt Tiến:

 Qua những thông tin nêu ở trên, chúng ta có thể rút ra được:

1.Những thế mạnh (S)
-Ngành nghề kinh doanh đa dạng:
        * Sản xuất quần áo các loại;
        * Dịch vụ xuất nhập khẩu, vận chuyển giao nhận hàng hóa;
        * Sản xuất và kinh doanh nguyên phụ liệu ngành may; máy móc phụ tùng và các thiết bị phục vụ ngành may công nghiệp; thiết bị điện âm thanh và ánh sáng;
        * Kinh doanh máy in, photocopy, thiết bị máy tính; các thiết bị, phần mềm trong lĩnh vực máy vi tính và chuyển giao công nghệ; điện thoại, máy fax, hệ thống điện thoại bàn; hệ thống điều hoà không khí và các phụ tùng (dân dụng và công nghiệp); máy bơm gia dụng và công nghiệp;
        * Kinh doanh cơ sở hạ tầng đầu tư tại khu công nghiệp;
        * Đầu tư và kinh doanh tài chính
        * Kinh doanh các ngành nghề khác theo quy định của pháp luật.
- Sản phẩm chất lượng tốt, đa dạng, phù hợp với nhiều đối tượng khách hàng  

·                                 Thương hiệu VIETTIEN cho thời trang công sở (Office Wear).
·                                 Thương hiệu Vee Sendy cho thời trang thông dụng (Casual Wear)
·                                 Thương hiệu TT-up là thương hiệu thời trang cao cấp (High Class Fashion
·                                 Hai thương hiệu thời trang cao cấp SAN SCIARO: (sản phẩm thời trang nam cao cấp mang phong cách Ý) và MANHATTAN (sản phẩm thời trang nam cao cấp mang phong cách Mỹ, thuộc tập đoàn Perry Ellis International và Perry Ellis Europe của Mỹ được Việt Tiến mua quyền khai thác và sử dụng).
-Giá cả cạnh tranh: công ty phát triển theo hướng “đa giá”, tạo nhiều sự lựa chọn cho khách hàng. Và để tăng số lượng bán ra, Việt Tiến không giảm giá sản phẩm mà tung ra các dòng sản phẩm có giá trung bình.
Đầu năm 2010, Tổng Công ty may Việt Tiến chính thức ra mắt nhãn hiệu mới, Việt Long - thời trang công sở gồm sơ mi, quần tây, áo thun, quần jeans, cà vạt… dành cho người lao động, sinh viên, công chức… với mức giá hoàn toàn bình dân, từ 80.000 - 180.000 đồng/sản phẩm.
-Thị trường rộng lớn:
 + thị trường nội địa: Việt Tiến  hiện có trên 1380 cửa hàng, đại lý phân bổ đều  khắp các tỉnh thành trong cả nước. 
+thị trường xuất khẩu:  Việt  Tiến  hiện  đang  giao  dịch  với trên 50 khách hàng thuộc các  nước  trên thế  giới  như: Mỹ, Canada, Châu Âu (Anh, Pháp, Đức,  Bồ Đào Nha,  Tây Ban Nha….), Châu Á (Nhật Bản, Hàn Quốc, Hồng Kông,  Singapore, Malaysia, Indone- sia….), Châu Úc…vv.  Cơ cấu thị trường như  sau: Nhật Bản: 31 %, EU: 27%, Mỹ: 27% và các nước khác: 15%.
     Là doanh nghiệp tiên phong trong việc đưa thương hiệu may mặc Việt Nam ra nước ngoài.Năm 2010 công ty đã mở đại lí chính thức tại Campuchia và Lào để trực tiêp giới thiệu sản phẩm Việt Tiến thay vì xuất khẩu qua trung gian.

-Quy mô lớn mạnh:Tổng Công ty May Việt Tiến gồm 3 công ty con, 21 đơn vị sản xuất trực thuộc, 14 công ty liên kết trong nước,7 công ty liên doanh với nước ngoài, tổng vốn điều lệ 230.000.000.000 đồng 

-Vị trí cao trên thị trường, thương hiệu uy tín, hình ảnh tốt:
    + Có thương hiệu lâu năm, khẳng định vị thế của mình qua các giải thưởng đã đạt được như top 10 doanh nghiệp sao vàng đất việt, top 50 thương hiệu mạnh việt nam,…Tổng công ty may Việt Tiến dẫn đầu top 7 doanh nghiệp tiêu biểu toàn diện của ngành may.
    +đưa sản phẩm tự thiết kế tham gia các chương trình biểu diễn thời trang lớn của thế giới,ký kết hợp đồng với một nhà thiết kế tạo mẫu thời trang người Pháp vừa nâng cao đẳng cấp của các sản phẩm truyền thống: sơ mi, quần âu, quần kaki… vừa xây dựng được thương hiệu thời trang mới chuyên dành cho giới trẻ.
          +kết hợp giữa khâu thiết kế và sản xuât, tạo lập hình ảnh công ty thời trang chứ không phải là cơ sở gia công quần áo.
-Nhân viên: trình độ tay nghề cao, được công ty đào tạo để có thể ứng dụng trang thiết bị mới vào sản xuất. Viettien phát triển đội ngũ nhà thiết kế ngày càng hùng hậu, lên tới 40-50 người
-Chăm sóc KH tốt: Việt Tiến quan tâm đến việc bảo vệ thương hiệu, thực hiện khuyến mãi, hậu mãi, tạo những dịch vụ chăm sóc tốt nhất cho khách hàng
-Trang thiết bị sản xuất hiện đại.
   +Việt Tiến nâng cấp phòng thử nghiệm bằng một hệ thống máy đo lực bám dính của keo, máy so màu, bền màu, máy đo độ ma sát, độ co rút của từng đường may. Qua thử nghiệm sẽ quyết định nguyên liệu đi với phụ liệu nào để tạo cho sản phẩm có một nét độc đáo riêng, thỏa mãn được nhu cầu của người tiêu dùng.
  +Việt Tiến đã đầu tư 10 triệu USD để tái đầu tư trang thiết bị chuyên dùng hiện đại như  hệ thống thiết kế mẫu rập
2. Những điểm yếu (W)
-Nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất của công ty chủ yếu được nhập từ nước ngoài. Do đó, công ty có thể sẽ gặp phải rủi ro khi giá nguyên vật liệu trên thế giới có những biến động bất thường, dẫn đến việc tăng giá nguyên vật liệu đầu vào.

                        

-Lao động chủ yếu là phổ thông, lao động có tay nghề cao, giàu kinh nghiệm còn chiếm tỷ lệ nhỏ

         3. Những cơ hội (O)

-Chính sách hỗ trợ :Nhà nước hỗ trợ từ nguồn vốn ngân sách, vốn ODA đối với các dự án quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu, trồng bông, trồng dâu, nuôi tằm; đầu tư các công trình xử lý nước thải; quy hoạch các cụm công nghiệp dệt; xây dựng cơ sở hạ tầng đối với các cụm công nghiệp mới; đào tạo và nghiên cứu của các viện, trường và trung tâm nghiên cứu chuyên ngành dệt – may.

-Xã hội: Cuộc vận động "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam" được phát động, đã tạo thêm thời cơ mới để phát triển thị trường dệt may trong nước đầy tiềm năng


- Nhu cầu xuất khẩu tăng: con số kim ngạch xuất khẩu 10,5 tỷ USD/ năm, thị trường xuất khẩu mở rộng ra nhiều quốc gia trên thế giới, đứng thứ hai (chỉ sau Trung Quốc) về kim ngạch xuất khẩu dệt may vào hai thị trường lớn là Mỹ và Nhật. Đặc biệt

- Ưu đãi cho hàng xuất khẩu:
+ Hội nhập, nhất là gia nhập WTO mang lại nhiều lợi thế đó là: xuất khẩu không bị khống chế quota; một số thị trường đang đối xử phân biệt về thuế, sẽ đưa thuế nhập khẩu xuống bình thường; được hưởng những lợi ích từ môi trường đầu tư. ,
+ hàng dệt may XK vào Nhật sẽ được hưởng thuế suất 0%, thay cho mức thuế khoảng 10%.
- Vốn đầu tư tăng: Chỉ tính trong 4 tháng đầu năm 2010, đã có 18 dự án FDI đầu tư vào ngành dệt may được cấp phép, với vốn đăng ký hơn 20 triệu USD.

4. Những thách thức (T)
-Cạnh tranh:
   +Sản phẩm: Thách thức lớn nhất : có rất nhiều nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực này, sẽ có rất nhiều cạnh tranh từ các nước xuất khẩu mạnh như Trung Quốc, Ấn Độ, Bangladesh .. Năm 2008, Trung Quốc sẽ bỏ hạn ngạch dệt may, sản phẩm của “người khổng lồ” này đang tràn ngập thế giới và cả thị trường VN.
          Nhiều đối thủ cạnh tranh trong nước đang rất phát triển:cty TNHH dệt may Thái Tuấn,cty dệt may Thắng Lợi,cty CP dệt may Thành Công… …

  +Cạnh tranh giá: tình hình dệt may Việt Nam sẽ còn gặp rắc rối hơn nữa khi giá hàng hoá tại các thị trường nhập khẩu chủ chốt như Mỹ, châu Âu cắt giảm 20%. Riêng Mỹ giảm nhập hàng dệt may Việt nam tới 15%. Điều này có nghĩa là hàng dệt may Việt Nam nói chung, viet tien nói riêng sẽ gặp phải sức cạnh tranh giá gay gắt ở thị trường nước ngoài trong thời gian tới.

-Lao động:
    Việc có thêm nhiều DN FDI hoạt động trong lĩnh vực may mặc tại Việt Nam càng làm tăng áp lực cạnh tranh thu hút lao động. , nguồn lao động sẽ bị chia sẻ, giá lao động sẽ tăng lên, cạnh tranh trong việc thu hút lao động cũng sẽ gay gắt hơn.

-Hàng nhái, hàng giả ngày càng gia tăng.

-Nhu cầu,tâm lí:
+ Trong nước:Tâm lý sính ngoại, ham rẻ và định kiến “chê” hàng Việt Nam nghèo nàn về mẫu mã của nhiều người tiêu dùng trong nước.
+Nước ngoài:Nhu cầu hàng hóa của thị trường Mỹ, châu Âu, Nhật Bản sẽ giảm mạnh. Mức tiêu dùng hàng may mặc cao cấp sẽ giảm. Đặc biệt, Mỹ sẽ giảm nhập khẩu trên 15% hàng dệt may.
Sức tiêu thụ của thị trường Mỹ, châu Âu giảm nên dĩ nhiên đơn đặt hàng may xuất khẩu sang các thị trường ấy cũng bị giảm theo.

-Môi trường Kinh tế:
     +tình hình suy thoái kinh tế thế giới đang tác động trực tiếp đến ngành dệt-may, đặt doanh nghiệp trước những khó khăn thách thức
      +cảnh báo về vấn đề phá sản đang diễn ra với các doanh nghiệp có sức đề kháng yếu kém, đầu tư dàn trải. Sắp tới Việt Nam sẽ bị tác động, trong đó chắc chắn lĩnh vực dệt may sẽ bị thiệt hại nặng.
     +lãi suất vay quá cao, chi phí đầu vào tăng nhiều lần, phải trả tiền lãi ngân hàng cao


-Chính sách, pháp luật:
       + môi trường chính sách còn chưa thuận lợi. Bản thân các văn bản pháp lý của Việt Nam đang trong quá trình hoàn chỉnh, trong khi năng lực của các cán bộ xây dựng và thực thi chính sách, cũng như các cán bộ tham gia xúc tiến thương mại còn yếu, đặc biệt là hạn chế về chuyên môn, ngoại ngữ, và kỹ năng.
Bản thân các thị trường lớn cũng vận dụng khá nhiều các rào cản về kỹ thuật, vệ sinh, an toàn, môi trường, trách nhiệm xã hội, chống trợ giá nhằm bảo hộ sản xuất trong nước

      +nhiều DN FDI khai lỗ trong nhiều năm nhưng hoạt động sản xuất vẫn được duy trì, thậm chí vẫn được mở rộng. Đây là một bất công lớn cho các DN trong nước, vì DN FDI còn được hưởng nhiều chính sách ưu đãi trong đầu tư.

      +hàng rào bảo hộ dệt may trong nước không còn.
·         Nếu như hiện nay, thuế nhập khẩu hàng may mặc vào Việt Nam là 50%, thuế nhập khẩu vải là 40%, thuế nhập khẩu sợi là 20% thì khi vào WTO, Việt Nam sẽ phải thực hiện đúng cam kết theo Hiệp định Dệt may (với mức giảm thuế lớn, ví dụ thuế suất đối với vải giảm từ 40% xuống 12%, quần áo may sẵn giảm từ 50% xuống 20% và sợi giảm từ 2% xuống 5%).Do vậy vải Trung Quốc sẽ tràn vào nước ta, chúng ta sẽ phải cạnh tranh với vải Trung Quốc nhập khẩu
·         Cam kết xóa bỏ các hình thức trợ cấp không được phép, ngành dệt may không còn được hưởng một số loại hỗ trợ như trước đây như các hình thức hỗ trợ XK và thưởng XK từ Quỹ hỗ trợ XK; các biện pháp miễn giảm thuế hoặc tiền thuê đất gắn với điều kiện XK; các ưu đãi tín dụng đầu tư phát triển...
       +Các rào cản thương mại được vận dụng ngày càng linh hoạt và tinh vi hơn, đặc biệt là trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. 
  • trong bối cảnh XK hàng dệt may đang có những diễn biến không thuận nhất là từ tháng 2/2009, tất cả các sản phẩm dệt may XK vào thị trường Hoa Kỳ sẽ phải tuân thủ theo những quy định mới cực kỳ nghiêm ngặt. Đi kèm là những mức phạt lỗi vi phạm rất cao, có thể lên tới 15 triệu USD, trong khi trước đây mức phạt này tối đa là vài triệu USD. Các nhà NK tại Hoa Kỳ sẽ đặt ra những yêu cầu cao hơn về chất lượng và tính an toàn của hàng dệt may.
  •  nguy cơ bị kiện chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ ở các thị trường xuất khẩu lớn hơn.
  •  các quy định về xuất xứ của hàng hóa có thể ảnh hưởng đến khả năng thâm nhập thị trường của các sản phẩm dệt may. 


5. Phối hợp điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức sẽ được các phương án chiến lược sau:
5.1.Sử dụng thế mạnh nắm bắt cơ hội (SO):
 S2S3O2: sản phẩm đa dạng, đáp ứng yêu cầu của các đối tượng khách hàng với mức giá phù hợp với thu nhập của người dân Việt Nam sẽ giúp công ty tăng lợi nhuận và thị phần trong nước.
 S2S3O3: tăng sức cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu giúp công ty giành thị phần ở các nước xuất khẩu và tăng doanh thu.
S2S3O4: xâm nhập vào các thị trường trước đây còn bị hạn chế, cùng với chính sách giá và sản phẩm đa dạng để mở rộng thị trường nươc ngoài nước.
S4O3: thị trường rộng lớn là điểm mạnh giúp doanh nghiệp có chỗ đứng trên thương trường, nên có cơ hội tăng số lượng xuất khẩu.
S5O1O3O5: tận dụng các nguồn đầu tư và hỗ trợ để mở rộng quy mô sản xuât, đồng thời đáp ứng nhu cầu xuất khẩu đang gia tăng.
S6O1: Tận dụng tối đa các nguồn vốn hỗ trợ để đầu tư vào sản xuất,đào tạo nâng cao tay nghề công nhân để nâng cao chất lượng sản phẩm hạ giá thành,củng cố vị thế trong lòng người tiêu dùng.

S6O2: với vị thế của mình phải luôn đi đầu trong Cuộc vận động "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam" bằng cách tổ chức các chương trình khuyến khích tiêu dùng,mở thêm các đại lí ,đưa hàng vào các trung tâm mua sắm lớn để người tiêu dùng dễ dàng tiếp cận hơn.

S6O3O4: tiếp tục xuất khẩu sang các thị trường quen thuộc như châu Âu,Mĩ…Luôn chú trọng đến cả hình thức và chất lượng sản phẩm ,giữ vững hình ảnh của công ty trong con mắt người tiêu dùng.

S7O1 :đầu tư cho công tác đào tạo thường xuyên,liên tục.Có các chính sách chăm lo,đảm bảo cuộc sống cho người lao động để họ yên tâm làm việc.

S8O2: xây dựng một bộ phận chăm sóc khách hàng chuyên nghiệp,để mọi thắc mắc của khách hàng được giải quyết trong thời gian sớm nhất.Mọi nhân viên phải luôn tâm niệm không chỉ bán được hàng mà khách hàng còn quay trở lại với Việt Tiến.
S9O3: đầu tư cơ sở vật chất,trang thiết bị hiện đại để đáp ứng các yeu cầu ngày càng cao của thị trường.
S9O5: có kế hoạch thu hút vốn để tiếp thu, ứng dụng công nghệ hiện đại,phương thức sản xuất tiên tiến.

5.2.Sử dụng thế mạnh để vượt qua thách thức (ST)
S1T1: Cạnh tranh ko thể tránh khỏi=>mở rộng ngành nghề kinh doanh, đồng thời tập trung ngành có ưu thế để cạnh tranh có hiệu quả.

S1T2: nhiều ngành nghề->chiến lược tuyển dụng,thu hút nhiều lao động với kĩ thuật, trình độ chuyên môn khác nhau.

S2T1:sản xuất, thiết kế sản phẩm ngày càng đa dạng,phong phú, phù hợp nhiều đối tượng khách hàng=> giữ lại khách hàng cũ,thu hút khách hàng mới, và cả khách hàng của đối thủ cạnh tranh…

S2T3:  Tiến hành các biện pháp chống nạn làm nhái,hàng giả của công ty: cải tiến các dây viền, cúc áo, nhãn hiệu, một cách tinh xảo để chống giả mạo, đăng báo, in brochute danh sách các đại lý chính thức, chỉ rõ phân biệt hàng giả, hàng thật.

S2T4: DN cần thay đổi,đa dạng hóa mẫu mã, kiểu dáng sản phẩm để có thể chinh phục những khách hàng khó tính, đặc biệt thích thay đổi phong cách theo xu hướng thị trường.

S2T4: Với chất lượng đã có,thời gian tới, doanh nghiệp thực hiện chiến lược nâng cao chất lượng sản phẩm đạt được tiêu chuẩn quốc tế về quản lý hệ thống theo tiêu chuẩn ISO 9002 .

S3T1T4:
        +tích cực tấn công nhiều đoạn thị trường có các nhóm đỗi tượng với thu nhập cao đến trung bình thấp, nên sản phẩm cần có nhiều mức giá cả phù hợp để cạnh tranh với các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
        +Linh hoạt giá cả, đảm bảo chất lượng sản phẩm và tiến độ giao hàng.

S4T1T4:
       +Giữ vững và phát triển thị trường trong nước, đây là cơ sở cho chiến lược thâm nhập thị trường nước ngoài bằng thương hiệu của chính mình. Công ty luôn phải củng cố mối quan hệ khách hàng cũ, mở rộng quan hệ giao dịch với khách hàng mới ở các thị trường khác nhau.
       +Nghiên cứu và phát triển khách hàng mới, thị trường mới.

S4T5: khi môi trường kinh tế suy thoái ở các thị trường với mức độ khác nhau thì tập trung hơn cho hoạt động ở thị trường bị ảnh hưởng ít để có thể cứu nguy cho hoạt động ở thị trường bị ảnh hưởng lớn.

S5T1: dựa vào lợi thế tiềm lực, quy mô rộng lớn để vươn lên chiếm lĩnh thị trường, cạnh tranh với các đỗi thủ cũng đang phát triển mạnh.

S5T2: xây dựng ngày càng nhiều cơ sở sản xuất gần hoặc ngay tại thị trường tiêu thụ=>cần tận dụng, thu hút lượng lao động đông đảo ở chính địa phương, từ đó có thể lựa chọn người có trình độ phù hợp.

S5T5:quy mô vốn lớn, cần giảm 1 phần vay với lãi suất cao để không gây ảnh hưởng lớn tới lợi nhuận Doanh nghiệp.
      Sử dụng đồng vốn có hiệu quả, tạo khả năng sinh lợi tối đa dù môi trường có nhiều biến động.

S6T1T4: DN đã được nhiều người biết đến trên thị trường-> mở rộng sản xuất, nâng cao thị phần, xây dựng thương hiệu tạo lòng tin của khách hàng.
S6T3: DN cần đăng ký nhãn hiệu sản phẩm, mẫu mã hàng hóa theo đúng các tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế, giới thiệu sản phẩm như một thương hiệu độc quyền của công ty trên thị trường để đối phó với các hiện tượng giả mạo,nhái thương hiệu.
S6T6: Dựa vào uy tín thương hiệu, là doanh nghiệp hàng đầu trong ngành dệt may Việt Nam để +tận dụng những ưu đãi từ nhà nước.
                      + vượt qua các rào cản thương mại khi xuất khẩu ra nước ngoài.

S7T1T4: nhân viên trình độ cao ->tạo điều kiện để làm việc hiệu quả, năng suất cao từ đó làm tăng số lượng, chất lượng sản phẩm, giá thành giảm-> cạnh tranh với các sản phẩm khác, thu hút khách hàng.

S8T1T4: dịch vụ chăm sóc khách hàng tốt sẽ giúp người tiêu dùng chọn VietTien nhiều hơn, việc cạnh tranh sẽ có lợi hơn.
S9T1T4:  Tiếp tục đổi mới công nghệ thiết bị sản xuất.->  tạo ra những sản phẩm đạt yêu cầu thâm nhập vào thị trường mới, tạo nguồn thu ngoại tệ góp phần đổi mới cơ sở hạ tầng tại công ty, tăng khả năng cạnh tranh về sản phẩm, giá cả trên trường.
S9T3:Dây chuyền công nghệ sản xuất tiên tiến-> tạo nhiều khác biệt về chất lượng với hàng nhái, hàng giả.



5.3.Vượt qua điểm yếu để tận dụng cơ hội (WO)
W1O2: Đầu tư sản xuất nguyên liệu cho ngay trong nước để tránh tình trạng bị động về nguyên liệu đầu vào từ đó cung cấp kịp thời nguồn hàng phục vụ nhu cầu xuất khẩu tăng.

W1O4: Tận dụng nguồn vốn FDI để đầu tư sản xuất nguồn nguyên liệu đầu vào nhằm cải thiện tình trạng nhập khẩu nguyên liệu

W2O1: Tận dụng những chính sách hỗ trợ của nhà nước để sản xuất nguồn nguyên liệu đầu vào ở nội địa nhằm hạn chế việc nhập khẩu nguyên liệu từ nước ngoài như hiện nay.

W2O4: Hiện đại hóa trang thiết bị, tiếp thu công nghệ mới, nâng cao trình độ tay nghề của người lao động cũng như trình độ quản lý bằng việc tận dụng nguồn vốn FDI.

5.4.Tối thiểu hóa điểm yếu để tránh những đe dọa (WT)
-W­1T1:   không chỉ có sự cạnh tranh về chất lượng sản phẩm ,giá cả mà còn có sự cạnh tranh về nguồn nhân công. Nguồn lao động không ổn định,lao động chủ yếu là phổ thông, lao động có tay nghề cao, giàu kinh nghiệm còn chiếm tỷ lệ nhỏ.Để đảm bảo cho việc sản xuất kinh doanh thì công ty cần phải đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân công có chất lượng đồng thời thu hút được nhiều nhân công tay nghề cao,thu hút đủ số lượng nhân công giá rẻ phục vụ cho sản xuất để biến thành lợi thế tạo ra những sản phẩm có lợi thế cạnh tranh về giá.

-W1 T2 :Số lượng doanh nghiệp FDI  hoạt động trong lĩnh vực may mặc tại Việt Nam tăng thêm nhiều  làm áp lực cạnh tranh thu hút lao động càng tăng lên.Vì vậy, công ty cần sử dụng nhiều biện pháp tạo điều kiện,có chính sách tốt nhất chăm lo đời sống và giữ người lao động; tăng lương để thu hút lao động. Ngoài ra, công ty có thể mở trường đào tạo nhân lực ở các tỉnh vùng xa để cung ứng lao động vừa đảm bảo số lượng ,lại vừa đảm bảo chất lượng nguồn nhân công.

-W2 T1T5T6 : NVL là đầu vào rất quan trọng để sản xuất sản phẩm. NVL phục vụ cho sản xuất của công ty chủ yếu được nhập từ nước ngoài. Môi trường kinh tế suy thoái,nguy cơ phá sản của các doanh nghiệp khá cao.lãi suất cho vay đầu vào cao trong đó có chi phí nhập khẩu NVL. DN có FDI được ưu đãi hơn so với DN trong nước,hàng rào bảo hộ trong nước không còn,NVL nhập khẩu  phải chịu thuế suất khá cao làm giá NVL đầu vào tăng cao và không ổn định.Để khắc phục tình trạng đó Việt Tiến nên đầu tư nghiên cứu và thực hiện tự sản xuất NVL,xây dựng dự án quy hoạch,phát triển vùng nguyên liệu ,đặc biệt vùng trồng bông;hỗ trợ giá để khuyến khích nông dân tham gia trồng bông,giảm tỉ lệ nhập khẩu NVL ->giá thành đầu vào giảm,tạo ra sản phẩm với giá cả có thể cạnh tranh với các đối thủ.

MA TRẬN SWOT
O (Cơ hội)
1.Chính sách hỗ trợ Nhà nước hỗ trợ từ nguồn vốn ngân sách, vốn ODA 
2.Xã hội: Cuộc vận động "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam"
3. Nhu cầu xuất khẩu tăng
4. Ưu đãi cho hàng xuất khẩu.
5.Vốn đầu tư tăng
T(Thách thức)
1.Cạnh tranh:sản phẩm,giá cả
2.Lao động bị chia sẻ
3.Hàng nhái,hàng giả
4.Nhu cầu,tâm lí
5.Môi trường kinh tế:suy thoái, nguy cơ phá sản của doanh nghiệp cùng ngành,lãi suất cao.
6.Chính sách, pháp luật chưa thuận lợi
S(Điểm mạnh)
1.Ngành nghề đa dạng
2.Sản phẩm đa dạng, phù hợp nhiều KH,chất lượng tốt
3.Giá cả cạnh tranh
4.Thị trường rộng lớn
5.Quy mô lớn
6.Vị trí cao, thương hiệu uy tín, hình ảnh tốt.
7.Nhân viên trình độ cao
8.Chăm sóc khách hàng tốt
9.Trang thiết bị sản
xuất hiện đại
-sảnxuất sản phẩm đa dạng, đáp ứng yêu cầu của các đối tượng khách hàng với mức giá phù hợp với thu nhập của người dân Việt Nam
-tăng sức cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu giúp công ty giành thị phần ở các nước xuất khẩu, tăng doanh thu.
-xâm nhập vào các thị trường trước đây còn bị hạn chế, cùng chính sách giá và sản phẩm đa dạng để mở rộng thị trường nước ngoài
-dựa vào thị trường rộng lớn là điểm mạnh giúp doanh nghiệp có chỗ đứng trên thương trường, cơ hội tăng số lượng xuất khẩu.
 -tận dụng các nguồn đầu tư và hỗ trợ để mở rộng quy mô sản xuât,đáp ứng nhu cầu xuất khẩu đang gia tăng
- Tận dụng tối đa nguồn vốn hỗ trợ để đầu tư vào sản xuất,đào tạo nâng cao tay nghề công nhân.
- tổ chức các chương trình khuyến khích tiêu dùng,mở thêm các đại lí ,đưa hàng vào các trung tâm mua sắm lớn.
- tiếp tục xuất khẩu sang các thị trường quen thuộc, chú trọng cả hình thức, chất lượng sản phẩm,giữ vững hình ảnh của công ty.
-đầu tư cho công tác đào tạo thường xuyên,liên tục.Có chính sách chăm lo,đảm bảo cuộc sống cho người lao động để họ yên tâm làm việc.
-xây dựng một bộ phận chăm sóc khách hàng chuyên nghiệp.
-đầu tư cơ sở vật chất,trang thiết bị hiện đại
- có kế hoạch thu hút vốn để tiếp thu, ứng dụng phương thức sản xuất tiên tiến
-mở rộng ngành nghề kdoanh, tập trung ngành có ưu thế để cạnh tranh có hiệu quả.
- chiến lược tuyển dụng,thu hút nhiều lao động với kĩ thuật, trình độ chuyên môn khác nhau.
-sản xuất, thiết kế sản phẩm ngày càng đa dạng,phong phú, phù hợp nhiều đối tượng khách hàng
-thay đổi,đa dạng hóa mẫu mã, kiểu dáng sản phẩm
- nâng cao chất lượng sản phẩm đạt được tiêu chuẩn quốc tế
- tích cực tấn công nhiều đoạn thị trường với chiến lược đa giá
- Giữ vững và phát triển thị trường trong nước,nghiên cứu và phát triển khách hàng mới, thị trường mới.
-suy thoái kinh tế: tập trung hơn cho hoạt động ở thị trường bị ảnh hưởng ít để,cứu nguy cho hoạt động ở thị trường bị ảnh hưởng lớn.
- tận dụng, thu hút lượng lao động đông đảo ở chính địa phương có cơ sở sản xuất.
- giảm 1 phần vay với lãi suất cao, sử dụng đồng vốn có hiệu quả.
- mở rộng sản xuất, nâng cao thị phần, xây dựng thương hiệu tạo lòng tin của khách hàng.
- đăng ký nhãn hiệu sản phẩm, mẫu mã hàng hóa theo đúng các tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế, giới thiệu sản phẩm như một thương hiệu độc quyền của công ty trên thị trường
-tận dụng những ưu đãi từ nhà nước,vượt qua các rào cản thương mại khi xuất khẩu ra nước ngoài.
W(Điểm yếu)
1.Nhân công chưa ổn định, lao động chủ yếu là phổ thông.
2.NVL chủ yếu là nhập khẩu

-Tận dụng nguồn vốn FDI, chính sách hỗ trợ của nhà nước để đầu tư sản xuất nguồn nguyên liệu đầu vào nhằm cải thiện tình trạng nhập khẩu nguyên liệu.
-Hiện đại hóa trang thiết bị, tiếp thu công nghệ mới, nâng cao trình độ tay nghề của người lao động cũng như trình độ quản lý bằng việc tận dụng nguồn vốn FDI
-đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân công có chất lượng đồng thời thu hút được nhiều nhân công tay nghề cao,thu hút đủ số lượng nhân công giá rẻ
- tạo điều kiện và có chính sách chăm lo đời sống và giữ người lao động; tăng lương thu hút nhiều lao động, mở trường đào tạo nhân lực ở các tỉnh vùng xa để cung ứng lao động đảm bảo số lượng và chất lượng nguồn nhân công.
- đầu tư nghiên cứu và thực hiện tự sản xuất NVL,giảm tỉ lệ nhập khẩu NVL.

Kết luận:
 Qua việc xây dựng ma trận Swot cụ thể là cho Tổng công ty CP may Việt Tiến giúp ta thấy được một cách tổng quát đặc điểm doanh nghiệp, tình hình bên trong và bên ngoài doanh nghiệp để có thể đề ra chiến lược một cách khoa học. Tuy nhiên vì nó không phải kĩ thuật quyết định chiến lược cuối cùng nên các nhà quản trị cũng cần phải kết hợp với nhiều công cụ khác như ma trận BCG, ma trận GE…giúp phân tích, lựa chọn chiến lược nhanh chóng và hiệu quả hơn.