Tìm kiếm

Thứ Tư, 13 tháng 10, 2010

NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC QUẢN LÍ MÔI TRƯỜNG,NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG MÔI TRƯỜNG NƯỚC HIỆN NAY Ở VIỆT NAM(p2,3)

Phần 2:Những bất cập trong quản lí môi trường nước ở Việt Nam

1.Thứ nhất, hệ thống văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường còn chưa chặt chẽ, cụ thể và thiếu đồng bộ,chưa có các chế tài thật sự nghiêm khắc trong việc quản lí môi trường nước.

Gần đây tại  Việt Nam, dư luận lại xôn xao trước những vụ án về môi trường như: Nhà máy Vedan, Công ty Tung Kuang ở Hải Dương thải nước thải chưa xử lý ra ngoài môi trường. Rõ ràng, vấn đề môi trường đang rất được quan tâm. Xung quanh các sự kiện ấy, dư luận đề cập nhiều đến vai trò của người quản lý môi trường và đặc biệt là vai trò của người quản lý doanh nghiệp. Ngoài ra, khi các doanh nghiệp vi phạm luật bảo vệ môi trường, mức độ thiệt hại đối với doanh nghiệp đó là một con số đáng kể. Không chỉ là thiệt hại trong việc đền bù cho vấn đề ô nhiễm môi trường mà hình ảnh thương hiệu của họ đối với cộng đồng cũng bị ảnh hưởng
  
Về cơ bản, Luật Bảo vệ môi trường cóhiệu lực từ 10/10/1994 ở Việt Nam  được tổ
chức triển khai tốt, đi vào cuộc sống. Nhiềukết quả thực hiện của Luật mang . nghĩa chiến lược, lâu dài và rất cơ bản, nhất là khi mà hoạt động bảo vệ môi trường đang từng
bước trở thành một hoạt động kinh tế xã hội quan trọng của nước ta. Những kết quả và sự
chuyển biến trong nhận thức và hành động của mỗi con người đào tạo ra nền tảng ban
đầu cho các bước phát triển tiếp theo.Cùng với việc ban hành Luật Bảo vệ môi
trường và tiếp sau đó là các Nghị định của Chính phủ, Thông tư hướng dẫn thực hiệncủa các bộ, một loạt các văn bản khác về bảo vệ môi trường cũng  được ban hành .Tuy nhiên, quá trình thực hiện các quy định pháp luật cũng thể hiện sự lúng túng, thiếu đồng bộ, dẫn đến kết quả chưa cao.

2.Thứ hai, các cấp chính quyền chưa quan tâm đúng mức đối với công tác bảo vệ môi trường,môi trường nước nói riêng.

Ô nhiễm môi trường hiện là vấn đề “nóng” trên phạm vi cả nước, không phải là vấn đề riêng của địa phương nào. Tuy nhiên, sự phối hợp mang tính liên tỉnh, liên vùng nhằm  đối phó với tình trạng này vẫn còn nhiều bất cập.

Việc đề ra những yêu cầu về môi trường theo một “chuẩn” chung là rất khó, do đó vẫn còn nhiều địa phương đưa ra những tiêu chuẩn thấp về môi trường (một phần còn do tình trạng cạnh tranh thu hút đầu tư). Như vậy, nếu dự án gây ô nhiễm bị từ chối cấp phép ở tỉnh này nhưng lại được cấp phép ở một tỉnh khác thì tình hình ô nhiễm sẽ rất khó giải quyết. Đây có thể là kết quả của việc thiếu một quy chế rõ ràng và nhất quán về việc hạn chế gây ô nhiễm, trong đó phải có sự phối hợp của các địa phương.

3.Thứ ba, công tác thẩm định và đánh giá tác động môi trường chưa được coi trọng.

Một trong những nguyên nhân làm suy giảm chất lượng môi trường tại nước ta bắt nguồn từ những yếu kém của khâu đầu tiên trong quá trình phê duyệt và cấp phép dự án đầu tư, trong đó, hoạt động thẩm định và đánh giá tác động môi trường còn nhiều hạn chế dẫn đến chất lượng của báo cáo đánh giá tác động môi trường còn thấp, chất lượng thẩm định của hội đồng thẩm định dự án chưa cao.

Theo Luật Bảo vệ môi trường và các văn bản pháp luật có liên quan, các chủ đầu tư phải có Báo cáo đánh giá tác động môi trường. Đây là công cụ quản lý môi trường được áp dụng cho từng dự án cụ thể nhằm đánh giá mức độ và phạm vi tác động môi trường của dự án, đồng thời đưa ra các giải pháp để giảm thiểu, hạn chế tác động tiêu cực vào môi trường. Báo cáo đánh giá tác động môi trường được lập và thẩm định trước để đánh giá tính khả thi về mặt môi trường của dự án với mục đích tham mưu cho cấp lãnh đạo đồng ý cho triển khai đầu tư dự án hay không. Song, thực tế cho thấy các báo cáo đánh giá tác động môi trường vẫn còn được lập một cách máy móc, rập khuôn, không thể hiện hết các tác động, đặc biệt là các tác động tiềm tàng của dự án, gây khó khăn và tiêu tốn nhiều thời gian cho công tác thẩm định. Hoạt động thẩm định và đánh giá tác động môi trường đang gặp phải nhiều vướng mắc, chất lượng thẩm định và phê duyệt chưa cao. Điều này bắt nguồn từ cả nguyên nhân chủ quan và khách quan như:

- Do các dự án thuộc nhiều loại hình khác nhau, từ công nghiệp nặng đến các ngành công nghiệp nhẹ, trong khi các Sở Tài nguyên và Môi trường chưa có nhiều  kinh nghiệm trong việc đánh giá tác động môi trường của các dự án này.

- Việc thiếu chuyên gia am hiểu từng lĩnh vực tham gia vào hội đồng thẩm định để phản biện những vấn đề liên qua đến môi trường của từng hoạt động riêng biệt cũng là một nhân tố khiến cho kết quả và chất lượng thẩm định, đánh giá tác động môi trường không cao.

- Trình độ của đội ngũ chuyên gia tham gia vào hội đồng thẩm định có vai trò quyết định đối với chất lượng của khâu thẩm định và đánh giá, do các chuyên gia có kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực hoạt động của mình và am hiểu về lĩnh vực môi trường. Tuy nhiên, thành phần của hội đồng thẩm định được quy định như hiện nay chưa đảm bảo tính khách quan, trung thực trong đánh giá. Luật đã quy định, 50% số thành viên của hội đồng thẩm định là các nhà môi trường, nhưng chưa nêu rõ các yêu cầu về trình độ, bằng cấp. Cũng do quy định chưa rõ ràng nên đã xảy ra trường hợp thành viên tham gia hội đồng thẩm định có kiến thức về đánh giá tác động môi trường nhưng không hiểu biết nhiều về tính chất dự án cần thẩm định, hoặc am hiểu về dự án  nhưng lại không có kiến thức về đánh giá tác động môi trường, hoặc cả hai. Việc thiếu đại diện của chính những người dân sinh sống xung quanh khu vực dự án được thực hiện cũng khiến cho việc đánh giá thiếu khách quan, trong khi họ chính là đối tượng chịu tác động mạnh nhất khi dự án đi vào thực hiện và có vấn đề về môi trường.

4.Quản lí việc xử lí nước thải ở làng nghề và các khu công nghiệp,các khu đô thị còn nhiều bất cập

- Bất cập về qui trách nhiệm cho chủ đầu tư: chủ đầu tư phải có trách nhiệm thu gom rác thải,xử lí nước thải,lập báo cáo,ứng cứu về các sự cố môi trường…
Tuy nhiên các chủ đầu tư chỉ là thuê mặt bằng nên việc qui trách nhiệm là khó.

-Qui định nội bộ khu công nghiệp chưa được phổ biến,quy hoạch khu công nghiệp còn thiếu đồng bộ…dẫn đến tình trạng không phát hiện được ai là người gây ô nhiễm để phạt và qui trách nhiệm cải tạo môi trường.

-Các làng nghề với các nguồn đầu tư tài chính cho việc bảo vệ môi trường còn kém,nhận thức của người dân còn rất thấp,thiếu các ứng dụng khoa học công nghệ trong xử lí nước thải và bảo vệ môi trường.
Hơn nữa các địa phương chưa thực sự có sự đầu tư giúp đỡ và quản lí chặt chẽ,xử lí nghiêm minh nên không ngăn chặn nổi tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Phần 3:  Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí môi trường, nâng cao chất
lượng  môi trường nước ở Việt Nam
hiện nay

             I.      Giải pháp ngắn hạn

Những việc có thể làm được ngay, không tốn tiền.Ví dụ, chỉ cần thay đổi hành vi vứt rác bừa bãi của người dân đã có thể mang lại hiệu quả cao. Một người vứt rác ngoài đường gây chi phí kinh tế cao, kéo theo đó sẽ là người nhặt rác, đổ rác, tiêu tốn công quỹ.

Chúng ta có thể xem xét lại các dự án, cân nhắc khía cạnh môi trường. Nhờ đó, giảm tốn kém cho bản thân dự án và hiệu quả môi trường lâu dài, thông qua tiết kiệm nguồn đầu vào, quản lý nguồn thải ra. 

Hệ thống quản lý môi trường trong các nhà máy cũng cần được tính đến. Các nhà máy từ sản xuất nhỏ đến sản xuất lớn đều là mô hình đóng, hệ thống quản lý môi trường kỹ lưỡng, theo tiêu chuẩn ISO 14000. Việc kiểm tra phải được tiến hành từng ngày, từng quy trình sản xuất. 

Áp dụng việc này hầu như không tốn tiền nhưng có thể giảm thiểu 30-40% những bức xúc hiện nay. 

         II.      Giải pháp dài hạn

1.Một là, hoàn thiện hệ thống pháp lý với những chế tài đủ mạnh tuỳ theo tính chất, mức độ và phù hợp với thông lệ quốc tế.

Trong bối cảnh môi trường nước ta đang xuống cấp nghiêm trọng với sự ra đời của hàng loạt các hoạt động sản xuất mới không có quy định trong Luật, do đó, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường là cần thiết. Hệ thống pháp luật này cần đổi mới xây dựng theo hướng quy định rõ ràng, chặt chẽ, bám sát thực tiễn sản xuất, kinh doanh của các đơn vị nhằm phát hiện và xử lý đúng những hành vi vi phạm bảo vệ môi trường, đồng thời quy định rõ ràng quyền lợi và trách nhiệm của người thực hiện các dự án đầu tư trong giai đoạn đầu. Việc triển khai thực hiện phải tiến hành nghiêm túc, trong giai đoạn đầu có thể cưỡng chế thực hiện cho đến khi đi vào nền nếp.

Mặc dù Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 đã có những điều chỉnh khá toàn diện về công tác bảo vệ môi trường trong tình hình mới, cũng như tăng cường phân cấp quản lý cho uỷ ban nhân dân các cấp, nhưng bên cạnh những nội dung được quy định chi tiết, dễ triển khai thực hiện, Luật cũng đang bộc lộ một số bất cập cần tiếp tục phải sửa đổi, bổ sung và điều chỉnh cho phù hợp như: xác nhận cam kết bảo vệ môi trường của các dự án nằm trong khu công nghiệp, khu chế xuất, quy định điều chỉnh đối với những dự án đã đi vào hoạt động trước tháng 7/2006 mà không có báo cáo thẩm định môi trường hoặc bản đăng ký đạt tiêu chuẩn môi trường; quy định trách nhiệm kiểm tra, thanh tra theo phạm vi quản lý nhà nước các cấp…Việc tiếp tục điều chỉnh Luật phù hợp với điều kiện mới sẽ hướng tới một môi trường tốt đẹp và thân thiện với con người.

2.Hai là, cần có cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan liên quan trong việc thẩm định, đánh giá tác động môi trường đối với các dự án ngay từ thời điểm xem xét ra quyết định cấp giấy phép đầu tư.

Để giải quyết tốt vấn đề môi trường, cần có một bài toán tổng hợp với sự tham gia của nhiều cấp, ngành từ trung ương đến địa phương, tuy nhiên, đây là một bài toán rất khó.

Giải quyết vấn đề nêu trên, trước hết, phải đẩy mạnh công tác quản lý về môi trường thông qua việc kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ việc cấp giấy phép đầu tư đối với các dự án mới về các mặt như: các sản phẩm phát sinh của quá trình sản xuất, phương án xả thải và xử lý môi trường sau sản xuất cũng như công tác quản lý cấp giấy phép xả nước thải... Cần xây dựng những cam kết và ràng buộc cụ thể về quyền lợi và trách nhiệm của doanh nghiệp đối với địa phương sở tại trong việc xử lý các tác hại có thể và chưa thể kiểm soát của môi trường; tạo cơ chế phối hợp chặt chẽ trong công tác chuyên môn giữa Thanh tra môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) và Cục Cảnh sát môi trường (Bộ Công an) trong việc quản lý môi trường.

Việc tăng cường phối hợp giữa Thanh tra môi trường và Cục Cảnh sát môi trường là yêu cầu hết sức quan trọng, góp phần giải quyết các vụ việc nhanh chóng, khẩn trương, tăng cường sức mạnh răn đe đối với các doanh nghiệp có hành vi gây ô nhiễm môi trường, tránh tình trạng thủ tục bị cắt khúc, khiến việc xử lý còn sót, chưa nghiêm minh. Bởi vì, mỗi cơ quan có đặc thù, chức năng, nhiệm vụ khác nhau và có thể bổ sung cho nhau trong thực hiện nhiệm vụ giám sát, bảo vệ môi trường. Cảnh sát môi trường có thể kiểm tra đột xuất bất cứ đơn vị nào có dấu hiệu vi phạm nên có thể xử lý nhanh, mạnh từng vụ việc, trong khi Thanh tra môi trường hoạt động phải theo chương trình, muốn thanh tra đơn vị nào thì phải có kế hoạch, phải báo trước nên có trường hợp khi thanh tra xuất hiện thì vi phạm đã được phi tang, che lấp.

3.Ba là, sử dụng công cụ chính sách như thu thuế, thu phí chất thải hợp lý để tái đầu tư cho bảo vệ môi trường.

Thuế, phí môi trường là một trong những công cụ quan trọng mà các quốc gia trên thế giới thường dùng trong việc điều tiết nền kinh tế vĩ mô, hạn chế những ngoại ứng bất lợi của quá trình sản xuất và thu lại tiền nhằm tái phân phối, tái đầu tư cho môi trường. Thuế sẽ khuyến khích và nâng đỡ các hoạt động kinh tế có lợi cho môi trường, nâng cao chất lượng môi trường, đồng thời thu hẹp, kìm hãm các hoạt động kinh tế gây ô nhiễm, huỷ hoại môi trường. Bản chất thuế là các khoản thu mang tính chất bắt buộc, cưỡng bức theo pháp luật, không bồi hoàn trực tiếp, do vậy, nó sẽ tác động trực tiếp đến hành vi của người phải nộp thuế. Đó cũng là cách thức chi trả cho sự tiêu dùng liên quan đến môi trường.

Tuy nhiên, ở Việt Nam, các loại thuế, phí này còn chưa đầy đủ, chưa được sử dụng rộng rãi và thuế môi trường ở đây mới chỉ được hiểu là tiền trả cho việc thu gom, xử lý chất thải, rác thải của quá trình sản xuất và hầu hết là chi phí thấp, đặc biệt là các làng nghề nông thôn. Sự dễ dãi trong công tác quản lý môi trường, chi phí xả thải thấp khiến cho nhiều doanh nghiệp nước ngoài đưa công nghệ cũ, lạc hậu vào Việt Nam làm cho môi trường sản xuất nói riêng, môi trường tại địa phương có khu công nghiệp nói chung bị ô nhiễm trầm trọng.

Việc xây dựng hệ thống thuế, phí cần thực hiện theo nguyên tắc: tuỳ theo khối lượng, tính chất, mức độ của chất xả thải, xả thải càng nhiều, chất xả thải càng nguy hiểm thì càng phải trả tiền nhiều, tuy nhiên, đến một mức độ nhất định thì cơ sở gây ô nhiễm phải bị đình chỉ hoạt động sản xuất hoặc đóng cửa; thuế, phí phải được đánh vào tất cả các hành vi gây ô nhiễm, ảnh hưởng đến sức khoẻ con người nói riêng, của hệ thống môi trường nói chung như ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm không khí, ô nhiễm âm thanh, ô nhiễm rác thải... Khung định mức của các loại thuế này cần rõ ràng, dễ hiểu để các doanh nghiệp có thể hiểu và tự kiểm soát hành vi xả thải của mình. Thuế, phí môi trường, một mặt là nguồn kinh phí để Nhà nước tái đầu tư vào các công trình hạ tầng như các nhà máy xử lý nước thải, các khu chôn lấp, xử lý, tiêu huỷ rác thải công nghiệp, mặt khác nhằm hạn chế các doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường. Về lâu dài, thuế, phí trở thành một biện pháp để nâng cao tinh thần, trách nhiệm đối với môi trường của các doanh nghiệp sản xuất.

4.Bốn là, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát nhằm phát hiện và xử lý kịp thời những doanh nghiệp vi phạm.

Công tác thanh tra, kiểm tra đối với các hành vi vi phạm môi trường của nước ta trong thời gian qua chưa đạt hiệu quả như mong muốn là do lực lượng cán bộ làm công tác môi trường của Việt Nam  vừa mỏng lại vừa yếu. Bên cạnh những khó khăn do khung pháp lý cho công tác quản lý môi trường còn nhiều hạn chế (như đã nêu trên), thì sự hạn chế về số lượng cán bộ cũng như chuyên môn yếu khiến cho việc thanh tra, kiểm tra các cơ sở sản xuất không thể tiến hành thường xuyên, liên tục, khiến cho việc vi phạm bảo vệ môi trường diễn ra nhiều lần mà cơ quan chức năng không thể xử lý kịp hoặc có tình trạng kiểm tra, xử phạt nhưng doanh nghiệp lại tái diễn ngay sau đó. Đồng thời, sự xuống cấp về đạo đức của một số cán bộ trực tiếp làm công tác kiểm tra, thẩm định, cấp giấy phép về chất lượng môi trường là một trong những nguyên nhân khiến cho các hành vi vi phạm Luật Bảo vệ môi trường tái diễn và bất chấp phản ứng của dư luận.

Để nâng cao chất lượng công tác thanh tra, kiểm tra về môi trường, cần chú trọng một số vấn đề như tăng cường số lượng cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra môi trường; nâng cao trình độ, nghiệp vụ của cán bộ làm công tác môi trường phù hợp với sự phát triển. Là một ngành nghề nhạy cảm, độc hại nên để có thể thu hút các cán bộ trẻ có tâm huyết cần thiết là phải có chính sách ưu đãi hợp lý. Nguồn kinh phí có thể lấy từ nguồn thuế và lệ phí xả thải, thu xử phạt đối với các hành vi vi phạm của doanh nghiệp; bên cạnh đó, cần tăng cường giáo dục ý thức, trách nhiệm đối với đội ngũ làm công tác kiểm tra, giám sát và thẩm định các dự án đầu tư, xây dựng, sản xuất.


Đối với các nhà quản lý môi trường, bảo vệ môi trường thì điều này không cần đề cập nhiều. Bởi việc đánh giá, phân tích những ảnh hưởng, tác động của môi trường sẽ giúp họ có biện pháp cụ thể để quản lý môi trường một cách chặt chẽ hơn.

Đánh giá tác động của môi trường còn là một hoạt động đi liền với vai trò, trách nhiệm và lợi nhuận của người quản lý, doanh nghiệp nói chung. Đánh giá tác động môi trường giúp các nhà quản lý doanh nghiệp có cái nhìn đúng đắn về trách nhiệm của doanh nghiệp mình với môi trường và cộng đồng. Từ đó họ sẽ không vì lợi nhuận mà bất chấp, vi phạm pháp luật về môi trường, không phải bỏ một khoản chi phí lớn cho việc khắc phục những hậu quả môi trường mà mình gây ra. Khi hoạt động đánh giá tác động môi trường đã trở thành một công việc bắt buộc đối với nhiều dự án đầu tư của doanh nghiệp; thì các nhà quản lý cần quan tâm hơn đến vấn đề này. Đây không chỉ là quy định nhằm thắt chặt hơn việc quản lý môi trường của Nhà nước; mà đây còn là cơ sở vững chắc nhất giúp các nhà đầu tư đưa ra quyết định có nên đầu tư vào một dự án nào đó hay không? Và qua việc đánh giá tác động môi trường, nhà đầu tư, người quản lý doanh nghiệp sẽ tiên liệu được những vấn đề về môi trường cần giải quyết nhằm đưa dự án, kế hoạch kinh doanh của mình đi đến thành công. Ngoài ra, với một nhà quản lý doanh nghiệp, việc xây dựng và phát triển thương hiệu cũng là vấn đề sống còn trong kinh doanh. Và thương hiệu, sản phẩm của doanh nghiệp chỉ được khách hàng, người tiêu dùng đón nhận khi doanh nghiệp quan tâm đến việc bảo vệ môi trường. Như vậy, công tác đánh giá tác động môi trường rõ ràng có ảnh hưởng rất lớn đến lợi nhuận trong kinh doanh cũng như việc xây dựng và phát triển thương hiệu của một doanh nghiệp. Một doanh nghiệp chỉ phát triển bền vững khi quan tâm đến vấn đề môi trường, thực hiện trách nhiệm với xã hội.

Đối với những nhà quản lý đất nước, việc đánh giá tác động môi trường càng trở nên cấp thiết. Việt Nam là một quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề của hiện tượng nóng dần lên của trái đất. Hiện tượng thời tiết bất thường, thiên tai, dịch bệnh… đó là hậu quả của ô nhiễm môi trường. Trước thực trạng đó, các nhà quản lý đất nước phải cần có những báo cáo, nghiên cứu, phân tích của công tác đánh giá tác động môi trường để đưa ra các biện pháp nhằm hạn chế tối đa những tác động tiêu cực ấy đến đời sống của người dân và sự phát triển của đất nước mình. Nhưng đó chỉ là những giải pháp mang tính ngắn hạn. Còn ở tầm vĩ mô hơn, các báo cáo, đánh giá, phân tích của công tác đánh giá tác động của môi trường sẽ là cơ sở cho việc hoạch định các kế hoạch quy hoạch, phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên của đất nước

6.Tuyên truyền giáo dục người dân có ý thức bảo vệ môi trường nói chung và môi trường nước nói riêng.

Đặc biệt đối với sinh viên và thế hệ trẻ của đất nước: giáo dục ngay trên trường học,trong công tác sinh hoạt đoàn đội.
Một cuộc điều tra nhanh về hiểu biết của sinh viên chuyên ngành môi trường và quản lý tài nguyên sắp ra trường đối với các chính sách hiện hành về môi trường do PanNature thực hiện tại 4 trường đại học: Khoa học tự nhiên, Bách Khoa, Kinh tế Quốc dân và Nông nghiệp I cho kết quả khá "thú vị". Có đến 50% sinh viên số sinh viên khi được hỏi trả lời sai về cơ quan chịu trách nhiệm phê chuẩn và ban hành các luật trong lĩnh vực môi trường và tài nguyên ở Việt Nam; gần 35% sinh viên trả lời sai về Cơ quan có trách nhiệm thống nhất Quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường trong toàn quốc; hơn 26% sinh viên trả lời sai về các luật thuộc lĩnh vực luật pháp về môi trường và tài nguyên của Việt Nam; hơn 73% sinh viên trả lời sai về thời gian ban hành Chương trình Mục tiêu quốc gia về Ứng phó với biến đổi khí hậu. Mức độ hiểu biết về các quy định đánh giá tác động môi trường của Việt Nam trong các bạn sinh viên cũng còn nhiều hạn chế…
Kết quả điều tra sơ bộ nêu trên đã phản ánh phần nào tính đúng đắn và tầm quan trọng của việc đào tạo, giảng dạy phân tích chính sách môi trường tại Việt Nam.
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn đó, có thể đưa thêm môn học “Phân tích chính sách môi trường” – Môn học mới cho các nhà quản lý tương lai

Kết luận

Con người dùng rất nhiều nước để uống, nấu nướng giặt giũ, và thậm chí dùng nhiều hơn trong sản xuất thực phẩm, giấy, quần áo,vv…

Sự tiêu thụ nước của con người đã ảnh hưởng đến hệ thống nước sạch, cũng giống như việc thiếu và ô nhiễm nước, có thể được hiểu như một hệ thống của sự sản xuất và chuỗi cung ứng. Những vấn đề về nước thường liên quan mật thiết đến cấu trúc của nền kinh tế toàn cầu.

Việc xử lý nước thải thường thì hay bị coi thường.Ở những vùng đang phát triển của thế giới, việc xử lý nước thải chỉ được ứng dụng bằng những hệ thống nhỏ lẻ. Ngay cả những nước công nghiệp, như là ở Bắc Mỹ và Châu Âu, nước thải cũng không được xử lý phổ biến.

            Những vấn đề về nguồn nước không an tòan và những hệ thống xử lý nguồn nước kém hiệu quả đang rất nóng bỏng ở những nước đang phát triển. Tuy chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ, nhưng vẫn có những người mắc bệnh do nước ô nhiễm và nước thải chưa được xử lý ở những nước công nghiệp. Mặc dù các nứơc phát triển có đủ điều kiện và phương tiện để giải quyết những vấn đề đó nhưng họ thường không làm vì những lý do về tự mãn, thiếu sự nhất trí chính trị, chi phí và những thứ khác.

Chừng nào Việt Nam đặt ra được mục tiêu cụ thể, xác định được chúng ta muốn gì, muốn đến đâu, thống nhất nguyên tắc thì các giải pháp tiếp theo sẽ đến tự nhiên. 

Hãy chung tay vì mt môi trường xanh,sch,đp,vì  
mt ngun nước tinh khiết cho trái đt thân yêu!

             

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét